MỞ ĐẦU
Việt
Nam - một đất nước được cả thế giới biết đến với những chiến công vang dội trên
mặt trận bảo vệ tổ quốc ở vài thập kỳ trước. Còn hiện nay trước ngưỡng cửa của
thế kỷ 21 - Việt Nam đang là một nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới, với thu
nhập bình quân đầu người trên dưới 300 USD. Những chiến thắng trên mặt trận
không thể làm ra được chiến công về kinh tế, sách lược chiến trường không thể là
chiến lược về kinh tế. Một thời chúng ta đã ngộ nhận xem lợi nhuận là cái gì đó
là phạm trù không có ở
CNXH,
chúng ta đã cho rằng sản xuất là chỉ để phục vụ chứ không phải vì lợi ích vì mục
đích lợi nhuận. Ngày nay trong thời kỳ quá độ lên CNXH chúng ta đang đẩy nhanh
quá trình CNH - HĐH đất nước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước
thì lợi nhuận là thước đo nhạy cảm để xem xét đánh giá sự tồn tại và sự phát
triển của các doanh nghiệp; Nếu doanh nghiệp (DN) đó làm ăn thua lỗ thì thị
trường sẽ loại doanh nghiệp đó ra khỏi sân khấu kinh tế, và nếu ngược lại thì
doanh nghiệp đó tiếp tục phát triển. Lợi nhuận phải thực sự từ năng suất - chất
lượng - hiệu quả trong sản xuất - kinh doanh chân chính, từ tài năng quản lý sản
xuất kinh doanh (KD) hiện đại mà tạo ra giá trị lợi nhuận về cả kinh tế, văn hoá
- một truyền thống văn hoá cốt cách của người Việt Nam. Hơn bao giờ hết, lợi
nhuận (P) là sự sống còn của doanh nghiệp, là động lực phát triển. Bởi thế nên
em chọn đề tài:"Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị
trường"
Trong
bài viết này em sẽ trình bày một số lý luận về : "Những vấn
đề cơ bản về lợi nhuận và vai trò của nó trong nền kinh tế thị
trường"
Đề
tài này
gồm:
Chương
1: Nguồn
gốc và bản chất của lợi
nhuận
Chương
2: Vai
trò của lợi
nhuận
Chương
3: Kết
luận
NỘI
DUNG
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/nhung-van-de-co-ban-ve-loi-nhuan-va-vai-tro-cua-no-trong-nen-kinh-te-thi-truong.html
Chương
I
NGUỒN
GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA LỢI
NHUẬN
1/
Nguồn gốc của lợi
nhuận:
1.1.
Các quan điểm trước Mác về lợi
nhuận.
Lợi
nhuận xuất hiện từ lâu nhưng đến khi có giai cấp thì lợi nhuận với được bàn đến
với tư cách là một phạm trù kinh tế. Trước Mác không phải các quan điểm đều
thống nhất, đều đúng đắn mà các trường phái đều cố gắng bào chữa cho quan điểm
của họ.
1.1.1.
Chủ nghĩa trọng thương: Ra
đời trong thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ
của CNTB, khi kinh tế hàng hóa và ngoại thương phát triển. Những người theo chủ
nghĩa trọng thương rất coi trọng thương nghiệp và cho rằng lợi nhuận thương
nghiệp chính là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt. Theo họ
không một người nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt hại cho kẻ khác, trong
trao đổi phải có một bên lợi và một bên
thiệt.
Những
người theo chủ nghĩa trọng thương coi tiền là đại biểu duy nhât của của cải, là
tiêu chuẩn để đánh giá sự giàu có của mỗi quốc gia. Họ cho rằng khối lượng tiền
tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương. Trong hoạt động ngoại thương
phải có chính sách siêu (mua ít, bán nhiều) điều đó được thể hiện trong câu nói
của Montchritren "Nội thương là ống dẫn ngoại thương là báy bơm, muốn tăng của
cải phải có ngoại thương để nhập dần của cải của ngoại
thương".
1.1.2
Chủ nghĩa trọng
nông:
Cũng
như chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng nông xuất hiện trong khuôn khổ quá
độ từ chế độ phong kiến sang chế độ TBCN nhưng ở giai đoạn kinh tế phát triển
trưởng thành hơn. Vào giữa TK 18 Tây âu đã phát triển theo con đường TBCN và ở
Anh cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu. ở Pháp và một số nước Tây âu công trường
thủ công cũng phát triển và ăn sâu vào cả trong nông nghiệp lẫn công nghiệp. Nội
dung cơ bản của chủ nghĩa trọng nông là giải phóng kinh tế nông dân thoát khỏi
phong kiến để phát triển nông nghiệp theo kiểu
TBCN.
Về
lợi nhuận họ cho rằng P thương nghiệp chẳng qua là do nhờ vào các khoản tiết
kiệm chi phí thương mại, và theo họ cho rằng thương mại chỉ đơn thuần là việc
đổi giá trị này lấy giá trị khác ngang như thế mà thôi và trong quá trình trao
đổi đó, nếu xét dưới hình thái thuần tuý thì cả người mua và người bán đều không
được lợi hoặc mất gì cả. Thương nghiệp không sinh ra của cải, trao đổi không
sinh ra được gì cả không làm cho tài sản tăng lên. Khi phê phán chủ nghĩa
trọng thương C.Mác đã viết trong bộ Tư bản (quyển I tập 1):"Người ta trao đổi
những hàng hoá với giá hàng hoá hoặc hàng hoá với tiền tệ có cùng giá trị với
hàng hoá đó, tức là trao đổi ngang giá, rõ ràng là không ai rút ra được trong
lưu thông nhiều giá trị hơn số giá trị bỏ vào trong đó. Vậy giá trị thặng dư
tuyệt nhiên không thể hình thành ra được". Như vậy họ đã hơn chủ nghĩa Trọng
thương ở chỗ là chỉ ra được lưu thông (trao đổi) không sinh ra của
cải.
1.1.3.
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển
Anh:
Chủ
nghĩa trọng thương và bắt đầu tan rã ngay ở TK 17. Cuối TK 18 ở Anh Pháp học
thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Vào thời kỳ này, sau khi tích luỹ được khối
lượng tiền lớn, giai cấp tư sản tập trung vào lĩnh vực sản xuất. Vì vậy các công
trường thủ công trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ. Diễn
ra việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành hai giai cấp vô sản và chủ
chiếm hữu ruộng đất. Mặt khác sự tồn tại của chế độ phong kiến không chỉ kìm hãm
sự phát triển của CNTB, mà còn làm sâu sắc hơn mâu thuẫn trong giai cấp quý tộc
và trong giai cấp này dần dần cũng bị tư sản hoá. Chính sự chuyển đổi lĩnh vực
sản xuất nên nó đòi hỏi phải có những lý thuyết đúng soi đường mà Chủ nghĩa
trọng nông và trọng thương không đáp ứng được. Do đó kinh tế chính trị học tư
sản cổ điển ra
đời.
William
Petty ( 1623 - 1687): Là nhà kinh tế học người Anh được Mác đánh giá là cha đẻ
của kinh tế chính trị học cổ điển. Ông tìm thấy phạm trù phạm trù địa tô mà chủ
nghĩa trọng thương đã bỏ qua và ông định nghĩa địa tô là số chênh lệch giữa giá
của sản phẩm và chi phí sản xuất (bao gồm tiền lương, giống má...). Về lợi tức
ông nói trong cuốn "Bàn về tiền tệ" là lợi tức là số tiền thưởng trả cho sự ăn
tiêu, coi lợi tức cũng như tiền thuê
ruộng.
Adam
Smith (1723 - 1790): Theo ông thì lợi nhuận là "khoản khấu trừ thứ hai" vào sản
phẩm lao động. Theo cách giải thích của ông thì lợi nhuận, địa tô, và lợi tức
cũng chỉ là hình thái khác nhau của giá trị do công nhân tạo ra thêm ngoài tiền
lương.
Davit
Recardo (1772 - 1823) quan niệm rằng lợi nhuận là giá trị thừa ra ngoài tiền
công. Ông không biết đến phạm trù giá trị thặng dư nhưng trước sau nhất quán
quan điểm là giá trị do công nhân tạo nên lớn hơn số tiền công họ được hưởng.
Như vậy ông đã nêu ra được nguồn gốc bóc
lột.
1.1.4.
Quan điểm của kinh tế học hiện
đại:
Từ
những năm 70 của TK 19 trở đi nền kinh tế tư bản xã hội hoá cao CNTB đã chuyển
từ giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang giai đoạn tư bản độc quyền.
Nhiều hiện tượng kinh tế mới xuất hiện mà học thuyết của trường phái cổ điển
không giải thích được. Hơn thế nữa lúc này chủ nghĩa Mác ra đời trong đó có kinh
tế chính trị Mác xít nói riêng mà nó là đối tượng phê phán của tư tưởng tư sản.
Trước bối cảnh đó đòi hỏi phải có lý thuyết soi đường để bảo vệ cho giai cấp tư
sản kinh tế chính trị hiện đại ra
đời.
Jona
Bates Clark (1847 - 1938) là nhà kinh tế học người Mỹ, ông chia kinh tế học ra
thành:Kinh tế tổng hợp, kinh tế tĩnh và kinh tế động. Theo ông, tiền lương của
công nhân bằng sản phẩm "giới hạn" của lao động, lợi tức bằng sản phẩm giới hạn
của tư bản, địa tô bằng sản phẩm giới hạn của đất đai. Phần còn lại là thặng dư
của người sử dụng các yếu tố sản xuất hay là lợi nhuận của nhà kinh doanh. Vậy
theo ông lợi nhuận là phần thặng dư của người sử dụng các yếu tố sản
xuất.
Alfred
arshall (1842 - 1924) là nhà kinh tế học người Anh. Ông cho rằng: Lợi tức là cái
giá phải trả cho việc sử dụng tư bản. Nó đạt được ở mức cung và cầu tư bản. Nếu
tiết kiệm nhiều sẽ tăng tư bản và sẽ giảm lợi tức. còn lợi nhuận là tiền thù
lao thuần tuý thuần tuý cho năng khiếu quản lý kinh doanh, sử dụng Tư bản và
năng lực tổ chức hoạt động công nghiệp. Ông cho rằng trong kinh doanh có hai
loại người đó là những người cách tân và những người thủ cưụ. Do đó mỗi loại sẽ
thu được lợi nhuận khác nhau. Khi đi sau phân tích lợi nhuận ông cho
rằng:
Những
sự bình đẳng của tỉ suất lợi nhuận bình quân hàng năm trong các ngành công
nghiệp khác nhau do đó các tỉ lệ khác nhau về số lượng thiết bị, số lượng tiền
công, cho chi phí về vật liệu, giá cả ruộng
đất.
Lợi
nhuận tiêu mỗi đợt vay vốn quay trở lại phụ thuộc vào thời gian và tổng số lao
động cần thiết cho sự hoàn
vốn.
Nếu
lợi nhuận là một yếu tố của giá cung bình thường thì thu nhập sinh ra từ tư bản
đã đầu tư phụ thuộc vào cầu tương đối về các sản phẩm của
nó.
John
Maynard Keyness (1884 - 1946) là nhà kinh tế học người Anh đồng thời là nhà hoạt
động xã hội. J.Keynes cho rằng nhà tư bản là người có tư bản cho vay, họ sẽ thu
được lãi suất. Còn doanh nhân là người đi vay tư bản để tiến hành sản xuất kinh
doanh, do đó họ sẽ thu được một khoản tiền lời trong tương lai và ông gọi là
"thu nhập tương lai". Đó chính là phần chênh lệch giữa số tiền bán hàng với phí
tổn cần thiết để sản xuất ra hàng
hoá.
Paul
A.Samuelson. Ông là người sáng lập ra khoa kinh tế học của trường Đại học
Massachusetts. Ông cho rằng lợi nhuận chịu sự chi phối của thị trường. Trong hệ
thống thị trường, mỗi loại hàng hóa, mỗi loại dịch vụ đều có giá cả của nó. Giá
cả mang lại thu nhập cho hàng hoá mang đi bán. Nếu mỗi loại hàng hoá nào đó mà
có đông người mua thì người bán sẽ tăng giá lên do đó sẽ thúc đẩy người sản
xuất làm ra nhiều hàng hoá để thu được nhiều lợi nhuận. Khi có nhiều hàng hoá
người bán muôn bán nhanh để giải quyết hàng hóa của mình nên giá lại hạ xuống
người sản xuất có xu hướng snả xuất ít hàng hoá hơn và giá lại được đẩy lên.
Như vậy trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động
của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất
hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ qua khu vực ít người tiêu dùng.
Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến việc sử dụng các tiến bộ kỹ thuật vào trong
sản xuất. Hệ thống thị trường luôn phải dùng lỗ lãi để quyết định ba vấn đề:
Cái gì, như thế nào và cho ai. Nói tới thị trường và cơ chế thị trường là phải
nói đến cạnh tranh vì nó vừa là môi trường vừa mang tính quy luật của nền
sản xuất hàng
hoá.
1.2.
Học thuyết giá trị thặng dư (m) và lợi nhuận (P) của
C.Mác
1.2.1.
Học thuyết giá trị thặng
dư:
Sự
tạo ra giá trị thặng dư (m): C. Mác là người đầu tiên đưa ra học thuyết m một
cách rõ ràng, sâu sắc, khoa học với môn kinh tế chính trị học. m là phần giá trị
mà người công nhân sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Để thấy rõ điều đó
ta đưa ra bài
toán.
Giả
định để sản xuất 10 kg sợi cần 10kg bông, giá trị 10 kg bông là 10.000đ. Để
biến số bông thành sợi, 1người công nhân phải lao động trong 6h và hao mòn máy
móc là 2.000đ, giá trị lao động 1 ngày của công nhân là 6.000đ, trong 1h công
nhân tạo ra giá trị là 1000đ. Cuối cùng ta giả định toàn bộ bông đã chuyển thành
sợ. Nếu người công nhân làm việc trong 6h thì không tạo ra được thặng dư. Trên
thực tế nhà tư bản bắt công nhân phải làm việc hơn 6h, giả sử là
9h
|
Tiền
mua bông
15000đ
Hao
mòn máy móc
3000đ
Tiền
mua sức lao động
6000đ
24000đ
|
Giá
trị của SP
(15kg)
Giá
trị bông chuyển thành sợi
15000đ
Giá
trị máy móc chuyển vào sợi
3000đ
Giá
trị do công nhân tạo ra 1000x9=
9000đ
27000đ
|
Vậy
khi bán sản phẩm nhà tư bản sẽ thu được: 2700đ - 24000đ =
3000đ.
Số
tiền này gọi là lợi nhuận, ở đây C.Mác đã vạch trần bộ mặt bóc lột của chủ nghĩa
tư bản, đã chứng minh thặng dư là do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm
không và thời gian lao động của công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không và
thời gian lao động của công nhân càng nhiều thì m tạo ra càng cao. Nếu như công
nhân không tạo ra m thì nhà tư bản không được gì vì vậy nhà tư bản không muốn mở
rộng sản xuất làm cho nền kinh tế không phát triển và ngược lại công nhân tạo ra
càng nhiều giá trị thặng dư thì nhà tư bản tích cực mở rộng sản xuất. Ngoài ra
C.Mác còn đưa ra phạm trù thặng dư tương đối và m siêu ngạch (thặng dư tương
đối dựa trên nâng cao ngân sách lao động tương đối còn thặng dư siêu ngạch dựa
trên nâng cao ngân sách lao động cá
biệt.
1.2.2.
Lợi nhuận
(P)
Cơ
sở hình thành và lợi nhuận: Trong quá trình sản xuất giữa giá trị hình thànhvà
chi phí sản xuất TBCM luôn luôn có sự chênh lệch, cho nên tư bản khi bán hàng
hoá, nhà tư bản không những bù đắp đủ số đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền
lời nganh bằng, với m. Số tiền này được gọi là 1... Vậy giá trị thặng dư được so
với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của tư bản toàn bộ tư bản
ứng trước, xẽ mang hình thái chuyển hoá thành lợi
nhuận.
gt=c+v+m=
k+m
=
k+P.
Tuy
nhiên giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư không phải là hoàn toàn đồng nhất, giữa
chúng có sự khác
nhau.
Về
mặt lượng: Nếu hàng bán đúng giá trị thì m=P. giữa m và P giống nhau đó là có
chung nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân là
thuê.
Về
mặt chất: giá trị thặng dư phản ánh nguồn gốc sinh ra từ tư bản lưu động, còn
lợi nhuận được xem là toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó lợi nhuận đã che
dấu quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản, che đậy nguồn gốc thật của nó. Điều đó
thể hiện:
Một
là:Sự
hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khác nhau giữa tư
bản cố định và tư bản lưu động, nên lợi nhuận sinh ra trong quá trình sản xuất
nhờ bộ phận tư bản lưu động thay thế bằng sức lao động, bây giờ lại trở thành
con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước.
Hai
là: Do
chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, cho nên
nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và có
thể thấp hơn giá trị hàng hoá (chi phí thực tế) là đã có lãi rồi. Chính sự không
nhất trí về lượng giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư đã che dấu bản chất bóc lột
của chủ nghĩa tư
bản.
Tỉ
suất lợi nhuận: Nhà tư bản không thể cam chịu với việc bỏ ra một khoản tư bản
lớn mà lại thu được lợi nhuận thấp. Trên thực tế, nhà tư bản không chỉ quan
tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm nhiều hơn đến tỉ suất lợi nhuận. Tỉ suất lợi
nhuận là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng
trước.
P'
= .
100% = .
100%
Tỉ
suất lợi nhuận cho biết nhà tư bản đầu tư vào đâu là có lợi , cho biết "đứa con
đẻ của tư bản ứng trước" lớn hay không, tỉ suất lợi nhuận chỉ rõ mức độ lời lãi
của việc đầu tư tư bản. Mức lợi nhuận cao thì lợi nhuận cao và tỉ suất (lợi
nhuận cao. Do đó nó là động lực của nền sản xuất tư bản, là yếu tố của sự cạnh
tranh, là sự thèm khát vô hạn của nhà tư
bản.
Sự
hình thành tỉ suất lợi nhuận bình
quân:
Chúng
ta đã biết rằng, trong các đơn vị sản xuất khác nhau do điều kiện sản xuất
(điều kiện kỹ thuật, tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề tư nhân...) khác nhau,
cho nên hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng
hoá đều phải bán theo một giá trị thống nhất, bán theo giá trị thị trường. Do
đó lợi nhuận thu được đem lại cũng khác nhau nhưng thực ra trong quá trình sản
xuất, các nhà tư bản không dễ đứng nhìn các nhà tư bản khác thu được lợi nhuận
cao hơn mình, mà họ sẽ di chuyển tư bản của mình vào các ngành khác để tìm kiếm
lợi nhuận và vô tình các nhà tư bản đã cạnh tranh nhau để giành giật nhau phần
lợi nhuận. Quá trình cạnh tranhđó đã làm cho tỉ suất lợi nhuận được chia đều
(bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận), và giá trị hàng hoá đã chuyển hoá thành giá
trị sản
xuất.
Như
chúng ta đã biết, do các xí nghiệp trong nội bộ từng ngành, cũng như các ngành
có cấu tạo hữu cơ của tư bản không giống nhau, cho nên để thu được nhiều lợi
nhuận thì các nhà tư bản phải chọn những ngành nào có tỉ suất lợi nhuận cao để
đầu tư
vốn.
Giả
sử có 3 nhà tư bản ở 3 ngành sản xuất khác nhau, tư bản ở mỗi ngành đều bằng 100
tỉ suất giá trị thặng dư đều là 100%. Tốc độ chu chuyển ở các ngành đều như
nhau. Tư bản ứng trước đều chuyển hết giá trị vào sản xuất. Nhưng do cấu tạo hữu
cơ của tư bản ở từng ngành khác nhau, nên tỉ suất lợi nhuận khác nhau nên lợi
nhuận thu được cũng khác nhau. Nhà tư bản không thể bằng lòng, đứng yên những
ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp. Trong trường hợp này các nhà tư bản ở ngành cơ
khí sẽ di chuyển tư bản của mình sang ngành da, làm cho sản xuất của ngành da
nhiều lên, do đó giá sản xuất của ngành da sẽ hạ xuống và tỉ suất lợi nhuận của
ngành này cũng hạ xuống. Ngược lại, sản xuất của ngành cơ khí sẽ giảm đi và giá
nên cao hơn giá
trị,
|
Ngành
|
Chi
phí sản
xuất
|
Khối
lượng
(m)
|
P'%
|
|
Cơ
khí
|
80c
+ 20v
|
20
|
20
|
|
Dệt
|
70c
+ 30v
|
30
|
30
|
|
Da
|
60c
+ 40v
|
40
|
40
|
và
do đó tỉ suất lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ tăng lên. Như vậy do hiện tượng di
chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi cả tỉ suất lợi nhuận cá
biệt vốn có của các ngành. Kết quả đã hình thành nên tỉ suất lợi nhuận bình
quân.
Vậy
tỉ suất lợi nhuận bình quân là tỉ suất theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư
trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực các
ngành của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa:
|
|
|
C.Mác
viết"... Những tỉ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản xuất khác
nhau, lúc đầu rất khác nhau. Do ảnh hưởng của cạnh tranh những tỉ lệ lợi nhuận
khác nhau đó được cân bằng thành tỉ suất lợi nhuận chung, đó là con số trung
bình của tất cả các loại tỉ suất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản
có một lượng nhất định thu được, căn cứ theo tỉ suất lợi nhuận chung đó, không
kể cấu tạo hữu cơ của nó như thế nào, gọi là là lợi nhuận bình
quân".
Lý
luận lợi nhuận bình quân cho thấy, một mặt mọi sự cố gắng của các nhà tư bản
đều đem lại lợi ích chung cho giai cấp tư sản, mặt khác các nhà tư bản cạnh
tranh nhau để phân chia giá trị thặng dư. C.Mác nói "Các nhà tư bản nhìn
nhau bằng haicon mắt, một con mắt thiện cảm, một con mắt ác cảm". Sự hình thành
tỉ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất
bóc lột của của chủ nghĩa tư
bản.
1.3.
Các hình thức của lợi
nhuận:
Như
ta đã biết giá trị thặng dư và lợi nhuận không hoàn toàn đồng nhất nhưng giữa
chúng đều có chung nguồn gốc là từ lao động thặng dư. Người tạo ra giá trị
thặng dư là công nhân và người tìm ra giá trị thặng dư lại là các nhà tư bản.
Giá trị thặng dư rất rõ ràng nhưng nó được che đậy bởi lợi nhuận và nó tồn tại
trong xã hội tư bản bởi các hình thái
sau:
1.3.1.
Lợi nhuận công
nghiệp:
Về
bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không và
phần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi
phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân được chia làm hai phần: một phần làm
ra giá trị tương ứng với tiền lương và chi phí sản xuất, phần còn lại tìm ra
giá trị thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên nhà tư bản luôn tìm mọi cách tăng
phần lao động thặng dư (tăng thời gian lao động, tăng năng suất lao động). Thời
gian lao động càng nhiều thì nhà tư bản thu được lợi nhuận càng lớn và lợi nhuận
công nghiệp là hình thái gần nhất, dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi
nhuận công nghiệp là hình thức chung, lớn nhất của các loại lợi nhuận. Vì vậy
lợi nhuận công nghiệp được xem là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản
xuất.
1.3.2.
Lợi nhuận thương
nghiệp.
Trong
lưu thông, trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm
nhiệm vụ lưu thông hàng hoá một trong những khâu quan trọng của sản xuất hàng
hoá. Chính vì vậy họ phải thu được lợi nhuận. Nhìn bề ngoài dường như lợi nhuận
thương nghiệp là do lưu thông mà có, nhưng xét về bản chất thì lợi nhuận thương
nghiệp là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản chủ nghĩa nhường cho nhà tư
bản chủ nghĩa. Nhà tư bản chủ nghĩa phải nhường cho nhà tư bản chủ nghĩa một
phần giá trị thặng dư của mình vì nó đảm đương một khâu quá trình sản xuất nó
tiêu thụ được một khối lượng hàng hoá lớn của tư bản chủ nghĩa, làm cho nhà tư
bản chủ nghĩa rảnh tay sản xuất tức là tư bản chủ nghĩa góp phần sáng tạo ra giá
trị thặng dư. Hơn nữa tư bản chủ nghĩa kinh doanh hàng hoá cho nên nó phải có
lợi nhuận. Vậy nhà tư bản nhường cho nhà tư bản chủ nghĩa bằng cách nào? Đó
là nhà tư bản chủ nghĩa mua hàng hoá của nhà tư bản chủ nghĩa với giá thấp
hơn giá trị và bán lại trên thị trường bằng giá trị, nghĩa là tư bản chủ nghĩa
đã có lợi nhuận. Về thực chất đây là sự phân chia giá trị thặng dư giữa tư bản
chủ nghĩa - tư bản chủ nghĩa theo tỉ suất lợi nhuận bình quân, nghĩa là nhà tư
bản chủ nghĩa hay tư bản trọng nông chỉ hưởng một phần lợi nhuận theo tỉ suất
lợi nhuận bình
quân.
1.3.3.
Lợi nhuận ngân
hàng
Ngân
hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ là người môi giới giữa người đi vay và người
cho vay. Do đo tư bản ngân hàng là tư bản kinh doanh tiền tệ, tư bản ngân hàng
cũng tham gia vào quá trình sản xuất. Vì vậy lợi nhuận ngân hàng là lợi nhuận
thu được do hoạt động và nó chính là lợi nhuận bình quân. Chênh lệch giữa lợi
tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiêt về nghiệp
vụ ngân hàng, cộng với khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên
lợi nhuận ngân
hàng.
1.3.4.
Tư bản cho vay và lợi
tức.
Tư
bản cho vay đã xuất hiện từ lâu, sớm hơn cả tư bản chủ nghĩa, đó là tư bản
cho vay nặng lãi nhưng tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản khác với tư bản cho
vay nặng lãi bởi vì tư bản c ho vay là một bộ phận của tư bản chủ nghĩa được
tách ra. Bởi vì trong quá trình sản xuất thì luôn có một lượng tiền nhàn rỗi
chưa được sử dụng và tư bản cho vay đảm đương vụ huy động số tiền này để các
nhà tư bản khác cần tiền hơn vay, thực hiện để sản xuất và họ thu được lợi nhuận
gọi là lợi tức cho vay. Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân, mà nhà tư bản
đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản đi vay
đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng và sự thoả thuận của hai bên. Về nguồn gốc
lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản
xuất, do đó lợi tức cũng hoạt động theo quy định tỉ suất lợi
tức.
Z' = .
100% Z: Lợi
tức
Z': tỉ suất lợi
tức
Về
đặc điểm quá trình cho vay đó là người sử dụng có quyền sở hữu và quyền sử
dụng tách rời
nhau.
1.3.5.
Địa tô: Tư
bản không chỉ thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn thấp trị cả lĩnh vực
nông nghiệp. Bởi vì tiếng gọi của lợi nhuận làm cho nhà tư bản có mặt ở khắlợi
nhuậnmọi nơi, mọi lĩnh vực. Xét về bản chất nhà tư bản kinh doanh những thuế
ruộng đất của địa chủ nó cũng thu được lợi nhuận bình quân, còn một phần lợi
nhuận siêu ngạch nằm ngoài lợi nhuận bình quân phải trả cho địa chủ dưới hình
thái địa tô tư
bản.
Vậy
địa tô tư bản xét về bản chất là một phần giá trị thặng dư siêu ngạch ngoài lợi
nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất trả cho địa chủ dưới hình
thái địa tô. Phần giá trị thặng dư siêu ngạch này tương đối ổn định lâu dài nó
không được bình quân hoá và độc quyền kinh doanh ruộng đất mà lợi nhuận siêu
ngạch phải chuyển hoá thành địa tô tư
bản.
Khi
đi sâu vào phân tích địa tô tư bản C.Mác đã chia thành: địa tô chênh lệch I,
địa tô chênh lệch II và địa tô tuyệt
đối.
Theo
C.Mác: địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên những ruộng đất màu mỡ và tốt
ruộng gần thị trường. Địa tô chênh lệch II là địa tô do thâm canh mà có còn địa
tô tuyệt đối là phần m siêu ngạch do cấu tạo hữu cơ trong nông nghiệp thấp hơn
trong công
nghiệp.
2.Bản
chất của lợi
nhuận:
Như
ta đã biết giá trị thặng dư và lợi nhuận không hoàn toàn đồng nhất nhưng giữa
chúng đều có nguồn gốc từ lao động thặng dư. Giá trị thặng dư là phần lao động
không công của công nhân và bị nhà tư bản chiếm đoạt còn lợi nhuận là số tiền ra
khi bán sản phẩm trên thị trường so với tiền bỏ vào sản xuất. Đứng về khía cạnh
nào đó thì chính giá trị thặng dư tạo ra lợi nhuận nó biểu hiện sự bóc lột và
chứng minh mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản một cách khá chính xác, khoa học.
Trước Mác các nhà kinh tế đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ
lý luận để diễn đạt. Nhưng đến C.Mác ông đã xây dựng tương đối hoàn chỉnh về
phạm trù giá trị thặng dư và tìm ra nguồn gốc thực sự của lợi nhuận. Mặc dù
tồn tại ở hình thái nào thì lợi nhuận vẫn cần phản ánh quan hệ bóc lột của chủ
nghĩa tư bản và được sinh ra từ trong quá trình sản
xuất.
II.
VAI TRÒ CỦA LỢI
NHUẬN
1.
Cơ chế của nước ta hiện
nay.
Đảng
và nhà nước ta đã xây dựng, chúng ta đang trong thời kỳ đầu quá độ lên chủ nghĩa
xã hội đang tiến hành đẩy nhanh tiến trình CNH - HĐH và phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần có sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Như chúng ta đã
biết sau chiến tranh - chúng ta đã giập khuôn mô hình của các nước XHCN một
cách giáo điều làm cho nền kinh tế phát triển một cách trì trệ. Và rồi đến những
năm 90 của thế kỷ 20 hệ thống chủ nghia xã hội ở Đông Âu bị sụp đổ. Nguyên nhân
chính của các đảng là đã ngộ nhận dẫn đến sai lầm trong lĩnh vực chính trị, đã
lệch khỏi những nguyên tắc quan trọng của chủ nghĩa Mác -Lê nin. Suy cho cùng đã
vi phạm quy luật quan hệ sản xuất phù hợp vơi tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Bởi thế để tạo tiền đề cho chủ nghĩa xã hội Đảng và và Nhà nứơc
đã xác định yếu tố nền kinh tế là phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Đến
đây chúng ta phải đặt câu hỏi: thế thì cơ chế thị trường của chúng ta có giống
cơ chế thị trường của của nghĩa tư bản hay không? phải chăng chúng ta đang
chuyển dần sang sản xuất tư bản chủ nghĩa? Điều này có thể lý giải ở bài trả lời
phỏng vấn của đồng chí Lê Khả Phiêu tổng bí thư trung ương Đảng "Chúng tôi chỉ
học hỏi những mặt tốt của chủ nghĩa tư bản đã thực hiện trong quá trình quản lý
còn những mặt xấu của nó thì chúng tôi loại bỏ" vả lại Lênin cũng đã từng nói
"về kinh nghiệm quản lý thì chủ nghĩa xã hội phải cắp cặp đi học chủ nghĩa tư
bản"
2.
Lợi nhuận là mục tiêu là động lực của doanh
nghiệp.
Doanh
nghiệp là đơn vị kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo yêu cầu của thị trường và xã
hội để đạt lợi nhuận tối đa và hiệu quả kinh tế cao nhất. Một doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả là doanh nghiệp đem lại lợi nhuận
cao.
Doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay vẫn luôn bị thị trường thẩm phán về lợi
nhuận, lợi nhuận là yếu tố để quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp, là động
lực chi phối hoạt động sản xuất của người sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận đưa các
doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất hàng hoá mà người tiêu cần nhiều hơn, bỏ
qua các khu vực ít người tiêu dùng. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến việc sử
dụng kỹ thuật sản xuất đạt hiệu quả nhất, sử dụng nguồn vốn hiệu quả nhất, và sử
dụng tối đa các nguồn lực đã cho. Lợi nhuận là mục tiêu để các nhà sản xuất kinh
doanh mở rộng sản xuất và như vậy doanh nghiệp sản xuất trên cơ sở, trên mục
tiêu là lợi nhuận. lợi nhuận là tiếng gọi thiết tha của các nhà sản xuất kinh
doanh và chỉ có lợi nhuận với là động lực để cho họ làm bất cứ cái gì, bất cứ
nơi nào. Vì thế lợi nhuận là động lực của bất kỳ ai trong kinh doanh trên thị
trường, là mục tiêu của sản xuất, dịch vụ. Lợi nhuận thu được trên thị trường sẽ
trả lời câu hỏi có nêu tiếp tục sản xuất nữa hay không? sản xuất ra cái gì? sản
xuất như thế nào và sản xuất cho ai?... Không còn nữa và sẽ không còn nữa một
doanh nghiệp kinh doanh vẫn tiếp tục sản xuất khi họ không thu được lợi
nhuận.
Khi
theo đuổi mục tiêu của mình, các doanh nghiệp phải thường xuyên chạy theo chi
phí cơ học khác nhau mà nó có được. Chi phí cơ hội sẽ là sự bỏ qua cơ hội, sau
cơ hội đã chịu, không có các cơ hội khác nhau thì cũng không có chi phí cơ
hội.
Doanh
nghiệp cũng như các nhà kinh tế khác phải cố gắng hết sức mình để đạt đến lợi
nhuận tối đa. Họ phải làm gì? phải lựa chọn cái nào? sản xuất như thế nào? phản
đối ra sao? đó là một vấn đề trả lời rất khó một cách cụ thể, nhưng có điều chắc
rằng nếu sản xuất không có lãi thì cũng giống như quy luật đấu tranh sinh tồn
của sinh vật doanh nghiệp này sẽ bị loại khỏi vũ đài kinh tế và doanh nghiệp
khác tiếp tục phát triển. Trong thị trường các doanh nghiệp luôn luôn phải tiến
lên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì doanh nghiệp đó có nguy cơ bị phá sản. Các doanh
nghiệp phải ngày càng mở rộng, phải làm cho lợi nhuận đẻ ra lợi nhuận thì mới
có điều kiện phát triển trong môi trường cạnh tranh gay go, quyết liệt. Không
còn nghi ngờ gì nữa lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá, phán xét sự tồn tại phát
triển hay diệt vong của doanh nghiệp, và lợi nhuận là miếng mồi béo bở mách bảo
cho các doanh nghiệp nên tiếp tục sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào và sản
xuất cho
ai?
3.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi
nhuận
3.1.
Quy mô sản xuất hàng hoá dịch vụ: Một
doanh nghiệp muốn làm ăn có hiệu quả thì phải giải quyết tốt 3 vấn đề: Sản xuất
ra cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai ? ba yếu tố này có quan hệ
biện chứng và đan quện vào nhau và được giải quyết trong mọi xã
hội.
Sản
xuất ra cái gì cho biết thị trường đang cần loại hàng hoá dịch vụ sản xuất như
thế nào cho biết các doanh nghiệp phải tiến hành sản xuất bằng cách nào để đạt
lợi nhuận tối đa vì chi phí sản xuất thấp
nhất.
Sản
xuất cho ai là người đang cần hàng hoá dịch vụ mình đang tiến hành sản xuất, ai
là đối tượng để cho mình tiến hành sản
xuất.
3.2.
Tổ chức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ: Đây
cũng là một khâu quan trọng của quá trình sản xuất nó ảnh hưởng rất lớn đến
việc thu lợi nhuận. Cung cầu trên thị trường luôn biến đổi đòi hỏi người sản
xuất phải xử lý kịp thời và điều chỉnh đúng đắn. Nếu cung bé hơn cầu thì trước
khi bán giá cao thì phải xem đến quy mô sản xuất của doanh nghiệp... Nếu cung
lớn hơn cầu thì nên ngưng ngay sản xuất và di chuyển tư bản sang ngành
khác.
3.3.
Tổ chức quản lý hoạt động kinh tế vĩ
mô:
Đây
là tài lãnh đạo và phán đoán của lãnh đạo doanh nghiệp sẽ định hướng cho các kế
hoạch, phương án sản xuất thu được lợi nhuận. Vấn đề này còn tuỳ thuộc và năng
lực của từng người lãnh đạo nhưng vai trò của họ cực kỳ quan trọng trong việc
một doanh nghiệp lựa chọn sản xuất cái gì để thu được lợi nhuận cũng như sự tồn
tại của doanh
nghiệp.
4.
Các nhân tố quyết định đến lợi nhuận: Cái
gì quyết định đến lợi nhuận điều đó được nhà kinh tế học Samelson đưa ra trong
quyển kinh tế học
(***)
Đối
với các nhà kinh tế học thì lợi nhuận là một mớ hở lớn yếu tố khác nhau và rõ
ràng một phần lợi nhuận được báo cáo chỉ là thu nhập của các chủ doanh nghiệp về
lao động của chính họ hoặc vốn đầu tư của họ nghĩa là các nhân tố sản xuất mà
học cung cấp. Như vậy một số cái bình thường được gọi là lợi nhuận thực ra chỉ
là tiền cho thuê, tiền thuê và tiền công dưới những cái tên khác. Tiền cho thuê
hàm ẩn và tiền công hàm ẩm là những cái tên gọi mà các nhà kinh tế đặt cho tiền
thu nhập từ những nhân tố của bản thân công
ty.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/nhung-van-de-co-ban-ve-loi-nhuan-va-vai-tro-cua-no-trong-nen-kinh-te-thi-truong.html
4.2.
Lợi nhuận là tiền thưởng cho việc chịu mạo
hiểm:
Nếu
như trong tương lai hoàn toàn chắc chắn thì sẽ không có cơ hội cho một người trẻ
tuổi thông minh đưa ra mộtđổi mới cách mạng. Kinh tế học hiện đại đưa ra ba
loại nguy hiểm mang lại lợi nhuận, là vỡ nợ, chịu nguy cơ đổi mới. Vỡ nợ là một
nguy cơ luôn ở hai bên đường đi lên của doanh nghiệp, nó có thể xảy ra với bất
cứ doanh nghiệp nào, thậm chí cả những công ty khổng lồ. Còn khoản chi phí chịu
cho sự nguy cơ là những người đầu tư yêu cầu có tiền thưởng cộng với thu nhập để
bù lại việc họ không thích nguy cơ. Đổi mới là loại nguy hiểm thứ ba góp phần
vào lợi nhuận là tiền thưởng cho đổi mới và dám
làm.
4.3.
Lợi nhuận là thu nhập độc
quyền
Lợi
nhuận do sáng tạo đổi mới dẫn chuyển sang phạm trù cuối cùng của chúng ta. Lợi
nhuận - nhiều người chỉ thích không coi nó là tiền cho thuê hàm ẩn hoặc khoản
thu vì dám chịu nguy hiểm trên thị trường cạnh tranh. Hình ảnh trong đầu óc họ
về người thích kiểu tiền lời có nhiều khả năng hơn là hình ảnh một người có
thiên hướng tính toán ranh ma bóc lột bằng một cách nào đó những người khác
trong cộng đồng. Có thể cái mà những người chỉ thích nghĩ đến là một loại thứ ba
hoàn toàn khác về ý nghĩa của lợi nhuận: Lợi nhuận là thu nhập độc
quyền.
Một
doanh nghiệp có thể có sức mạnh kinh tế lớn trên thị trường và bạn là người chỉ
huy duy nhất của một bằng sáng chế quan trọng thì doanh nghiệp sẽ trả tiền bạn
để đặt ra một cái gì đó nhằm hạn chế việc sử dụng nó. Nếu khán giả mê hơn về
tiếng hát của bạn thì bạn hãy nhớ rằng bạn càng hát nhiều thì cái gía mà khách
hàng trả cho tiếng hát của bạn càng
thấp.
5.
ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến việc thu lợi nhuận của doanh
nghiệp.
5.1.
Cơ chế thị trường tạo
ra sự cân đối giữa giá cả và sản xuất, giá cả trên thị trường là mệnh lệnh của
người sản xuất, của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nắm bắt đúng thị trường thì
lợi nhuận doanh nghiệp sẽ được bảo đảm và doanh nghiệp tiếp tục tồn tại trên thị
trường giá cả luôn luôn biến động nên đòi hỏi phải cần có một hệ thống thông tin
nhạy cảm để nắm bắt chính xác và từ đó phản ứng kịp
thời.
5.2.
Cơ chế thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp di chuyển sang
ngành có lợi nhuận
cao.
Các
doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến biến đổi lợi nhuận của ngành mình đang sản
xuất mà cần phải nghiên cứu cả ở những ngành khác và tiếng gọi của lợi nhuận sẽ
quyết định họ sản xuât cái gì. Cơ chế thị trường tạo điều kiện cho họ di chuyển
tư bản của mình sang ngành có lợi nhuận cao. Chính cơ chế thị trường đòi hỏi
các doanh nghiệp phải vươn lên không ngừng và tìm đến nơi mà có lợi nhuận cao và
quyết định chuyển đổi sản
xuất.
5.3.
Cơ chế thị trường làm cho các doanh nghiệp lợi nhuận cạnh
tranh: Cạnh
tranh là hình thức đấu tranh quyết liệt giữa những người sản xuất hàng hoá, để
chiếm lĩnh thị trường nhằm thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh làm cho chất lượng sản
phẩm ngày càng tốt hơn, số lượng nhiều hơn và chi phí ít hơn và kỹ thuật ngày
càng tiên tiến
hơn.
5.4.
Cơ chế thị trường chọn lọc các doanh nghiệp: Lợi
nhuận thu được hay không sẽ quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Nếu
doanh nghiệp thu được lợi nhuận trong sản xuất thì nó sẽ tiếp tục tồn tại và nếu
không thu được lợi nhuận thì các doanh nghiệp đó sẽ bị xa thải ra khỏi vũ đài
kinh tế. Điều đó có nghĩa là cơ chế thị trường sẽ chọn lọc của các doanh
nghiệlợi nhuậncác nhà kinh tế làm ăn có hiệu quả và gạt bỏ các nhà kinh tế làm
ăn không hiệu
quả.
6.
Hậu quả của việc chạy theo lợi
nhuận:
Lợi
nhuận là mục tiêu của các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất. Nhưng cũng
chính và chạy theo lợi nhuận mà các nhà kinh tế đã để lại hậu quả rất lớn đối
với môi trường xung
quanh.
6.1.
Đối với xã
hội
Quá
trình cạnh tranh để thu được lợi nhuận cao nó sẽ làm cho doanh nghiệlợi nhuận
này tiếp tục phát triển, nhưng đồng thời nó làm cho doanh nghiệp kia phải kèm
doanh nghiệp bị phá ản trở thành những người làm thuê và nghèo khổ mặt khác nó
gây tình trạng mất việc làm của hàng loạt các công nhân trong doanh nghiệp đó,
gây ra tình trạng bất ổn định với xã hội có sáo trộn về việc làm, về thu nhập
của mỗi
người.
Để
thu được lợi nhuận nhiều hơn nữa các nhà tư bản tìm mọi cách quan chi phí sản
xuất, tăng thời gian lao động của công nhân làm thuê, cắt giảm mức lương, điều
kiện sống và sinh hoạt của họ làm cho con người chỉ biết làm việc và không cói
thời gian để quan tâm đến hạnh phúc gia đình và làm nảy sinh các rạn nứt trong
gia đình. Tất cả các thủ đoạn chỉ để làm giàu cho một số ít người, họ đã giàu
thì cứ giàu lên còn những người nghèo thì ngày càng nghèo hơn và làm cho xã hội
phân cấp, khoảng cách giàu nghèo ngày càng cách xa. Mặt khác sự canh tranh gây
ra sự thù địch, đối chọi nhau làm phát sinh các tệ nạn xã
hội...
Ngày
nay trong quá trình cạnh tranh các doanh nghiệp đều thấy họ không có lợi do đó
các doanh nghiệp cùng sát nhập bị và trở thành những tổ chức độc quyền khổng lồ,
các tổ chức này tự quy định về giá cả. Do đó nó phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo, tức
là làm mất tính hiệu quả và ganh đua, mất hiệu quả về kinh
tế.
6.2.
Đối với môi
trường:
Các
doanh nghiệp chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà không chú ý đến tác động tiêu cực của
chúng đến môi trường xung quanh như làm ô nhiễm nguồn nước, không khí, khai thác
cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản, rừng,
biển...
7.
Các giải pháp khắc phục hậu quả chạy theo lợi
nhuận:
a.
Xây dựng môt hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định quá trình sản xuất,
thực hiện hướng dẫn, giám sát, khống chế đối với thị trường, bổ khuyết những
nhược điểm và thiếu sót của bản thân kinh tế thị trường muốn vậy chúng ta
phải:
-
Xây dựng pháp luật, các quy định và quy chế điều
tiết.
-
Ổn định và cải thiện các hoạt động kinh
tế.
-
Tác động đến việc phân bố lại nguồn
lực
-
Quy hoạch và thu hút đầu tư mở rộng sản
xuất.
-
Xây dựng các chính sách, các chương trình tác động đến khâu phân phối lại thu
nhập.
b.
Xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh lành mạnh giá cả phải do thị
trường quyết định, bảo đảm tự do lưu thông các loại hàng hoá và yếu tố sản xuất,
tính cạnh tranh không lành
mạnh
c.
Xây dựng hệ thống chính sách pháp luật quy định về môi trường, quy định mức ô
nhiễm cho
phép.
8.
Các phương pháp tăng lợi
nhuận:
Thực
sự là thiếu sót nếu không đề cập đến cách tăng lợi nhuận. Làm thế nào để tăng
lợi nhuận? đó là câu hỏi đặt ra với bất kỳ ai làm kinh tế nhưng để trả lời một
cách cụ thể thì hết sức khó khăn. Mặc dù vậy chúng ta cũng có một số cách để
tăng thêm lợi
nhuận.
-
Phải luôn nắm được thị hiếu của khách hàng, tâm lý người tiêu dùng. Ngành
tiếp thị cho thấy rằng khách hàng luôn tìm mua những sản phẩm có chất lượng,
hình thức, giá rẻ. Bởi thế muốn thắng trên cạnh tranh cần phải thoả mãn 3 yếu tố
đó trong sản phẩm. Đầu tư vào khoa học kỹ thuật là cách tốt nhất để làm được
điều đó.
-Các
doanh nghiệp, các nhà kinh tế phải tránh tình trạng tồn kho, ứ đọng, các người
hoạch định phải tính toán sao cho phù hợlợi nhuậnđể huy động tối đa nguồn lực đã
có (vốn, tài nguyên thiên nhiên, lao động...). Phải tìm được đầu ra của sản phẩm
để xác định đầu vào. Từ đó cung ra thị trường những hàng hoá và dịch vụ mà thị
trường đang cần tránh cung những mặt hàng mà người tiêu dùng không có xu hướng
tiêu dùng hoặc cung quá nhiều hàng
hoá.
-
Ngành Marketing đóng vai trò quan trọng trong việc bán sản phẩm nhất là khi
doanh nghiệp chưa có uy tín, chưa phổ biến. Tuy nhiên quảng cáo phải có sức
thuyết phục, phải có phần hợp lý tránh tình trạng quảng cáo không đúng hiện
thực. Ngày nay khách hàng là những người hết sức nhạy cảm, có nhiều thông tin
chính xác cho nên chất lượng với là yếu tố quan trọng để giành được chữ "tín".
Bởi thế Marketing phải luôn luôn đi sát thực tế sản
phẩm.
-
Một điều nữa hết sức quan trọng đó là: Tài cá nhân lãnh đạo, ông chủ phải biết
quyết toán, biết tính toán nên đầu tư vào đâu, số lượng bao nhiêu, làm như thế
nào để khi bán họ thu được lợi nhuận. Và điều quan trọng hơn là phải biết nắm
lấy thời cơ. Vai trò ngoại giao của ông chủ phải làm tốt với đối tác cũng như
với các công nhân. Những cái đó ảnh hưởng rất lớn đối với việc tăng lợi nhuận
của doanh
nghiệp.
-
Điều cuối cùng và cũng là điều tối quan trọng nhất là phải đầu tư như thế
nào?Đầu tư vào đâu? Đầu tư bằng cách nào? Câu trả lời là nếu muốn tăng lợi nhuận
thì chỉ có cách hiệu quả nhất là đầu tư vào khoa học kỹ thuật để giảm chi phí
sản xuất, đồng thời tăng chất lượng sản
phẩm.
9.
ý nghĩa của việc nghiên cứu về lợi
nhuận:
Đối
với nước ta từ môt nước nông nghiệp đi lên sản xuất lớn (sản xuất hàng hoá) theo
con đường XHCN thì việc nghiên cứu về vấn đề lợi nhuận là một việc vô cùng quan
trọng, thực tế đã chứng minh có thời kỳ chúng ta quan niệm là phạm trù lợi
nhuận không có trong nền sản xuất XHCN. Chúng ta quên đi rằng chúng ta đang sản
xuất ra cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? mà chúng ta chỉ quan tâm
đến việc sản xuất đạt mục tiêu đã đề ra bất chấlợi nhuậnsự biến đổi của thị
trường. Do đó kéo theo nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ kém phát triển hơn
rất nhiều so với bên ngoài. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường sản xuất
hàng hoá là phải nhằm mục tiêu lợi nhuận. Vì vậy tại Đại hội Đảng lần thứ VIII
chúng ta đã xây dựng "Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước" cho nên
phạm trù lợi nhuận lợi nhuận là một trong những yếu tố quyết định hoạt động của
các doanh nghiệp. Do đó nó có nghĩa sống còn không những đối với các doanh
nghiệp mà còn có ý nghĩa sống còn đối với tất cả các thành viên trong doanh
nghiệp đó.
Đối
với các doanh nghiệp thì lợi nhuận luôn luôn là mục tiêu phấn đấu, là sự khao
khát của các doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp luôn luôn tìm cách để cho doanh
nghiệp mình đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Nhưng để đạt được hiệu quả kinh
tế thì các doanh nghiệp phải biết giải quyết tốt 3 vấn đề cơ bản của nền sản
xuất hàng hoá đó là: sản xuất ra cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho
ai? Mặc dù vậy dù lựa chọn quá trình sản xuất của mình như thế nào cho phù hợp
thì các doanh nghiệp đều phải quan tâm và tính toán làm sao để sản xuất đạt
hiệu quả tốt nhất. Vì vậy lợi nhuận là thước đo tốt nhất, là chỉ tiêu nhạy cảm
nhất để đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nó chi phối
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đưa các doanh nghiệp
những nơi làm việc ăn màu mỡ và bỏ qua những nơi hoạt động kinh doanh kém hiệu
quả.
Đối
với những người hạch định đường lối chính sách phát triển kinh tế thì lợi nhuận
cũng là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Song ngày nay, các chính phủ,
các quốc gia đều phải tính toán, tìm hiểu lợi nhuận trong những chiến lược phát
triển kinh tế. Chúng ta đều hiểu rằng để kinh tế phát triển được trước hết là
quá trình sản xuất kinh doanh phải thu được lợi nhuận lợi nhuận cũng chính là
mục tiêu để các nhà hoạch định đường lối chính sách phát triển kinh tế đề ra
chính sách phát triển kinh tế cho đến nước mình. Tuy nhiên trong chính sách
phát triển chúng ta không chỉ quan tâm đến mình lợi nhuận mà chúng ta còn quan
tâm đến các vấn đề khác như phúc lợi xã hội, trật tự xã hội, môi trường, giáo
dục, việc làm... Những vấn đề ấy cũng không thể nằm ngoài những chiến lược phát
triển kinh tế được. Mặc dù vậy trong chiến lược phát triển kinh tế thì lợi nhuận
vẫn được coi là vấn đề then chốt, sống còn đối với những người hoạch định ra
chính sách phát triển kinh tế. Bởi vì một quốc gia có giải quyết tốt các vấn đề
như giáo dục, y tê, việc làm, phúc lợi xã hội hay không thì nền kinh tế đó phải
được tăng trưởng và phát triển một cách vững bền. Nhưng để phát triển được vững
bền thì cần phải có chính sách phát triển kinh tế đúng
đắn.
Đối
với chúng ta là những thành viên trong xã hội, đồng thời cũng là các thànhviên
trong những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì lợi nhuận là sự sống còn của
chúng ta. Bởi vì nếu doanh nghiệp có làm ăn có hiệu quả có thu được lợi nhuận
thì chúng ta mới có việc làm ổn định. Nhưng chúng ta cũng cần phải hiểu lợi
nhuận không phải tự nó đưa lại cho chúng ta mà nó phải trải qua những thời kỳ,
những giai đoạn cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy lợi nhuận không hộ nhiều mà có mà
nó là sự cố gắng không mệt mỏi của chúng ta trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
Phần
ba:
KẾT
LUẬN
Như
vậy trong đề án này tôi đã trình bày một cách hệ thống các quan niệm về lợi
nhuận của các tư tưởng trước Mác, và nêu rõ nổi bật về điểm của học thuyết kinh
tế chính trị Mác về 1 và các vấn đề hiện đại của các nhà kinh tế chính trị học
hiện đại có những lý thuyết phù hợp với giai đoạn ngày nay, mà đặc biệt là
Sameulson và David Begg. Lợi nhuận không phải làvấn đề cổ xưa - mà hơn bao giờ
hết nó là vấn đề cấp bách và quan trọng của bất kỳ ai làm kinh tế và chắc chắc
rằng lợi nhuận sẽ còn tồn tại và còn quan tâm chừng nào còn nền sản xuất hàng
hoá. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay vấn đề về lợi nhuận nhất là lý thuyết
hiện đại cần được làm rõ, phân tích và áp dụng để chúng ta đón nhận những tinh
hoa của nhân loại, để phù hợp theo kịp nhân loại. Vì thế trong mục bàn về
nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị
trường với những kiến thức đã học vốn có và có lý thuyết hiện đại tôi đã phân
tích và hệ thống các vấn đề có liên quan, nhưng tôi nghĩ rằng mới chỉ giải quyết
được một vấn đề nhỏ nhoi nào đấy, còn trên thực tế phải năng động ở mọi tình
huống, mọi hoàn cảnh thì mới đạt được hiệu
quả.
Bản
thân tôi - một sinh viên trường Đại học , qua đề án này tôi thấm nhuần và ý
thức được rằng lợi nhuận là mục đích để cạnh tranh, là điều kiện để phát triển.
Bởi thế trong sự khắc nghiệt của thị trường, đòi hỏi một đất nước, một doanh
nghiệp, một người làm kinh tế thì phải kiếm được lãi (lợi nhuận). Tuy nhiên hoạt
động kinh tế không phải chỉ vì lợi nhuận mà quên đi lợi ích của cộng đồng làm
mất đi di sản văn hoá, mất đi bản sắc dân tộc và làm tổn hại đến môi trường...
Như Bác Hồ đã nói (Dân tộc Việt Nam có lớn mạnh hay không, non sông Việt Nam có
sánh vai được với các cường quốc năm châu hay không, điều đó hoàn toàn phụ
thuộc vào công việc học tập của các cháu). Với tôi một nhà kinh tế trong tương
lai và hiện bây giờ đang trong ghế của trường Đại học tôi sẽ cố gắng hết sức
mình để học hỏi các thế hệ đi trước nhằm trang bị kiến thức đầy đủ cho hành
trang vào đời của tôi sau này nhằm đóng góp một phần nhỏ bé sức lực của mình
vào sự phát triển của đất
nước.
TÀI
LIỆU THAM
KHẢO
1.
C.Mác và Agghen toàn tập (tập
7,8)
2.
Tư bản - C.Mác quyển I (tậpI, II), quyển III tập
(1,2,3)
3.
Giáo trình kinh tế chính trị học tập 1 - NXB giáo dục 1998 (chương 4,
6)
4.
Lịch sử các học thuyết kinh tế trường ĐHKTQD - NXB giáo dục 1993. NXB Thống kê
1996.
5.
Giáo trình kinh tế vĩ
mô
6.
Kinh tế học P.Samuelson (tập 1 -
2)
7.
Kinh tế học David Begg (tập 1 -
2)
8.
Các thời báo kinh tế Việt Nam (1995 -
1999)
9.
Các tạp chí ngân
hàng
10.
Các tạp chí nghiên cứu và lý
luận
11.
Các tạp chí cộng
sản.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/nhung-van-de-co-ban-ve-loi-nhuan-va-vai-tro-cua-no-trong-nen-kinh-te-thi-truong.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét