PHẦN
MỞ ĐẦU
1.Lý
do chọn đề
tài:
Đất nước ta đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước trải qua
nhiều giai đoạn ,nhiều thời kì ,mỗi thời kì tồn tại những hình thức tư hữu khác
nhau .Và cho đến ngày nay, khi đất nước đang trên đà phát triển để trở thành con
rồng của châu á, thì những quan hệ sản xuất đã dần được hoàn thiện. Nhưng để có
những quan hệ sản xuất và nền kinh tế như ngày nay là do Đảng và Nhà nước ta đã
kế thừa , phát huy những gì đã có mà chính tư tưởng của Mác đã làm kim chỉ nam
dẫn đường cho những bước phát triển . Là những sinh viên kinh tế , những người
sẽ góp phần xây dựng kinh tế trong tương lai,chúng ta thường quan tâm đến những
vấn đề của kinh tế phát triển như cổ phần hoá doanh nghiệp,như kinh tế thị
trường ... mà mấy ai quan tâm đến vấn đề thuế đất.
Mới chỉ nghe về đất thì ta tưởng chừng như đây là vấn đề
của nông nghiệp nhưng thực tế hoàn toàn khác đây là một trong những vấn đề quan
trọng trong dự án phát triển kinh tế sau này,thuê đất ở đâu để kinh doanh, tiền
thuê đất như thế nào, hay khi kinh doanh nông nghiệp thì tiền thuê đất là bao
nhiêu , nghĩa vụ như thế nào ? chúng ta phải tìm hiểu. Để hiểu rõ vấn đề này
chúng ta phải phân tích những lí luận về địa tô của MAC , từ đó tìm hiểu xem Nhà
nước ta đã vận dụng ra sao và đề ra những qui định , hạn mức gì ? Chính vì vậy
mà em chọn đề tài :"Lý luận về địa tô của CácMac và sự vận dụng vào chính
sách đất đai ở Việt Nam hiện
nay"
2.
Phương pháp nghiên cứu
:
Sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng , kết hợp phân tích , tổng hợp , so sánh để
làm rõ những nội dung nghiên cứu của đề tài . Đề tài sử dụng có chọn lọc thành
quả nghiên cứu của các tác giả khác về chính sách ruộng đất hiện
nay.
CHƯƠNG
1
Lí
luận về địa tô của
C.MARX
Nông
nghiệp cũng là một lĩnh vực sản xuất của xã hội .Nhà tư bản nông nghiệp tiến
hành kinh doanh nông nghiệp cũng chiếm đoạt một số giá trị thặng dư do công nhân
nông nghiệp mà họ thuê mướn tạo ra.Tất nhiên họ không thể chiếm đoạt toàn bộ giá
trị thặng dư đó mà phải cắt một phần để nộp tô cho địa chủ .Là nhà tư bản kinh
doanh trước hết họ phải đảm bảo thu được lợi nhuận bình quân cho tư bản của họ
bỏ ra.Và do đó để nộp tô cho địa chủ, họ còn phải bảo đảm thu được một số giá
trị thặng dư vượt ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, một lợi nhuận siêu
ngạch,khoản lợi nhuận siêu ngạch này phải được bảo đảm thường xuyên và tương đối
ổn định .Và bộ phận siêu ngạch này là do công nhân nông ngiệp tạo ra,nộp cho địa
chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất .Có khi địa chủ không cho thuê ruộng đất
mà tự mình thuê công nhân để khai thác ruộng đất của mình.Trong trường hợp này
địa chủ hưởng cả địa tô lẫn lợi
nhuận.
Để làm rõ được bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa hơn ,Mác đã so sánh giữa địa
tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến
.
1.1.SO SÁNH ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA VỚI ĐỊA
TÔ PHONG
KIẾN
1.1.1.Sự giống
nhau:
Trước hết là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế đồng thời cả
hai loại địa tô này đều là kết quả của sự bóc lột đối với những người lao động
.
1.1.2.Sự khác
nhau:
Hai loại địa tô này cũng khác nhau về mặt lượng và chất
.
a.Về
mặt lượng
:
Địa tô phong kiến gồm toàn bộ sản phẩm thặng dư do nông dân tạo ra,có khi còn
lan sang cả sản phẩm cần
thiết.
Còn địa tô tư bản chủ nghĩa chỉ là một phần giá trị thặng dư ngoài lợi nhuận
bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất
.
b.
Về mặt
chất:
- Địa tô phong kiến phản ánh mối quan hệ giữa hai giai cấp
:
+Địa chủ
+ Nông dân
Trong đó giai cấp địa chủ trực tiếp bóc lột nông
dân.
- Còn địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh mối quan hệ giữa 3 giai
cấp
+Giai cấp địa
chủ
+Giai cấp tư bản kinh doanh ruộng
đất
+ Công nhân nông nghiệp làm
thuê
Trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân thông qua tư bản hoạt
động.
Nhưng cuối cùng Mac cũng kết luận rằng :”Dù hình thái đặc thù của địa tô như thế
nào thì tất cả những loại hình của nó đều có một điểm chung là sự chiếm hữu địa
tô là hình thái kinh tế dưới đó quyền sở hữu ruộng đất được thực
hiện”
Với kết luận này Mac đã khẳng định địa tô chính là phương tiện, là công cụ để
bọn địa chủ bóc lột nông dân, ai có ruộng , ai có đất thì
được quyền
thu địa tô tức là có quyền bóc lột sức lao động của người
làm thuê.
Nếu nhìn vào bề ngoài ,ta không thể thấy được sự bóc lột của địa chủ đối với
nông dân ,thực chất là giúp chúng gián tiếp bóc lột thông qua những nhà tư bản
kinh doanh ruộng đất, thuê đất của địa chủ để cho nông dân làm. Vấn đề đặt ra ở
đây là tại sao nhà tư bản lại có thể thu được phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài
lợi nhuận bình quân để trả cho chủ ruộng đất .Việc nghiên cứu địa tô chênh lệch
và địa tô tuyệt đối sẽ giải thích điều
đó.
1.2.CÁC HÌNH THỨC ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
.
1.2.1.Địa tô chênh
lệch.
Trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp cũng đều phải có lợi nhuận siêu
ngạch .Nhưng trong công nghiệp lợi nhuận siêu ngạch chỉ là một hiện tượng tạm
thời đối với nhà tư bản nào có được điều kiện sản xuất tốt hơn. Còn trong nông
nghiệp thì ít nhiều có khác ,lợi nhuận siêu ngạch hình thành và tồn tại một cách
tương đối lâu dài. Vì một mặt không thể tự tạo thêm ruộng đất tốt hơn ,gần nơi
tiêu thụ nhưng có thể xây dựng được thêm nhiều nhà máy tối tân hơn trong công
nghiệp , mặt khác diện tích ruộng đất có hạn và toàn bộ đất đai trồng trọt được
đã bị tư nhân chiếm đoạt hết, và cũng có nghĩa là đã có độc quyền kinh doanh
những thửa ruộng màu mỡ,có vị trí thuận lợi thì thu được lợi nhuận siêu ngạch
một cách lâu
dài.
Nhưng có phải chỉ có ruộng đất tốt hay ít nhất là ruộng đất trên mức trung bình
mới thu được lợi nhuận siêu ngạch
không?
Về mặt này nông nghiệp cũng khác công nghiệp . Trong công nghiệp giá trị hay giá
cả sản xuất háng hoá là do những điều kiện sản xuất trung bình quyết định . Còn
trong nông nhiệp ,giá cả hay giá trị sản xuất của nông phẩm lại do những điều
kiện sản xuất xấu nhất quyết định .Đó là vì nếu chỉ canh tác những ruộng đất tốt
và trung bình,thì không đủ nông phẩm để thoả mãn nhu cầu của xã hội nên phải
canh tác cả những ruộng đất xấu,và do đó cũng phải bảo đảm cho những nhà tư bản
đấu tư trên những ruộng đất này có được lợi nhuận bình quân
.
Như vậy giá cả sản xuất của nông phẩm trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất
xấu là giá cả sản xuất chung của xã hội nên nhà tư bản kinh doanh trên những
ruộng đất trung mình cũng thu được lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình
quân .Thưc chất thì địa tô chênh lệch cũng chính là lợi nhuận siêu ngạch , hay
giá trị thặng dư siêu ngạch
.
Vậy
địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân ,thu được
trên những điều kiện sản xuất thuận lợi hơn . Nó là số chênh lệch giữa giá cả
chung của nông phẩm được quyết định bỏi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu
nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất trung bình và tốt. Nó sinh ra là
do có độc quyền kinh doanh ruộng đất nhưng bên cạnh đó lại có độc quyền chiếm
hữu ruộng đất ,nên cuối cùng nó vẫn lọt vào tay chủ ruộng
đất.
Cũng cần chú ý rằng không phải địa tô chênh lệch là sản phẩm do độ màu mỡ ruộng
đất sinh ra .Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng dư trong nông
nghiệp là do lao động thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Màu mỡ ruộng đất
chỉ là điều kiện tự nhiên hay cơ sở tự nhiên làm cho lao động của nông dân có
năng suất cao hơn , và là điều kiện không thể thiếu được để cho lợi nhuận siêu
ngạch hình thành ,cũng như địa tô nói chung, không phải là do ruộng đất mà ra ,
nó là do lao động đã bỏ vào ruộng đất và do giá cả của sản phẩm lao động của
nông phẩm ,chứ không phải do bản thân ruộng
đất.
Mac nói:” Lực lượng tự nhiên ấy không phải là nguồn gốc sinh ra lợi nhuận siêu
ngạch , mà chỉ là cơ sở tự nhiên khiến có thể đặc biệt nâng cao năng suất lao
động lên”.
Sở dĩ Mac nói như vậy là vì nếu không có bàn tay con người ,không có sức lao
động thì với điều kiện tự nhiên tốt cũng không thể tạo ra được nhiều lợi nhuận
nhưng với sức lao động có hạn của con người ,nếu điều kiện tự nhiên tốt sẽ thúc
đẩy sản xuất nâng cao lợi nhuận siêu
ngạch.
Chính lao động với năng suất cao đã làm cho nông phẩm thu được trên một diện
tích canh tác tăng lên ,và giá cả sản xuất chung của một đơn vị nông phẩm hạ
xuống so với giá cả sản xuất chung của nông phẩm,do đó mà có lợi nhuận siêu
ngạch .Sự hình thành của lợi nhuận siêu ngạch mà từ đó của địa tô chênh lệch ,
được minh hoạ bằng ví dụ sau
đây:
Địa tô chênh lệch có hai loại địa
tô:
+Địa
tô chênh lệch
I
+
Địa tô chênh lệch
II.
a,Địa
tô chênh lệch
I:
Địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên cơ sở ruộng đất màu mỡ . Ngoài ra,
ruộng đất có vị trí thuận lợi như ở gần nơi tiêu thụ hay đường giao thông thuận
tiện cũng đem lại địa tô chênh lệch I , bởi vì ở gần nơi tiêu thụ như thành phố
,khu công nghiệp hay đường giao thông vận tải thuận tiện,sẽ tiết kiệm được một
phần lớn chi phí lưu thông khi bán cùng một giá;những người phải chi phí vận tải
ít hơn đương nhiên được hưởng một khoản lợi nhuận siêu ngạch so với những người
phải chi phí vận tải nhiều hơn,do đó mà có địa tô chênh
lệch.
Ví dụ:
|
Vị
trí ruộng
đất
|
Chi
phí tư bản
(usd)
|
Sản
lượng
(tạ)
|
Lợi
nhuận bình quân
(usd)
|
Chi
phí vận chuyển
(usd)
|
Tổng
giá cả sản xuất cá biệt
(usd)
|
Giá
cả sản xuất cá biệt 1 tạ
(usd)
|
Giá
cả sản xuất
chung
|
Địa
tô chênh lệch
I
| |
|
Của
1 tạ
|
Của
TSL
(usd)
| ||||||||
|
Gần
thị
trường
|
100
|
5
|
40
|
0
|
140
|
28
|
31
|
155
|
15
|
|
Xa
thị
trường
|
100
|
5
|
40
|
15
|
155
|
31
|
31
|
155
|
0
|
b,
Địa tô chênh lệch II:
Là
do thâm canh mà có . Muốn vậy phải đầu tư thêm tư liệu sản xuất và lao động trên
cùng một khoảng ruộng đất ,phải cải tiến kĩ thuật , nâng cao chất lượng canh tác
để tăng năng suất ruộng đất và năng suất lao động
lên.
Ví dụ:
|
Lần
đầu
tư
|
Tư
bản đầu tư
(usd)
|
Số
lượng
(tạ)
|
Giá
cả sản xuất cá biệt
(usd)
|
Giá
cả sản xuất
chung
|
địa
tô chênh lệc
II
| |
|
Của
1
tạ(usd)
|
Của
TSL
(usd)
| |||||
|
Lần
thứ 1
|
100
|
4
|
25
|
25
|
100
|
0
|
|
Lần
thứ 2
|
100
|
5
|
20
|
25
|
125
|
25
|
Chừng
nào thời hạn thuê đất vẫn còn thì nhà tư bản bỏ túi số lợi nhuận siêu ngạch
trên.Nhưng khi hết hạn hợp đồng thì chủ ruộng đất sẽ tìm cách nâng mức địa tô
lên để giành lấy lợi nhuận siêu ngạch đó, biến nó thành địa tô chênh lệch
.
Vì lẽ đó ,chủ ruộng đất chỉ muốn cho thuê ruộng đất ngắn hạn còn nhà tư bản lại
muốn thuê dài
hạn.
Cũng vì lẽ đó nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp không muốn bỏ ra số vốn
lớn hơn để cải tiến kĩ thuật ,cải tạo đất đai ,vì làm như vậy phải mất nhiều
thời gian mới thu hồi được vốn về . Và rốt cuộc chủ đất sẽ là kẻ hưởng hết lợi
ích của những cải tiến đó . Và nhà tư bản thuê ruộng đất vì vậy chỉ nghĩ làm sao
tận dụng hết màu mỡ của đất đai trong thời gian thuê ruộng đất. Mục đích thâm
canh của họ là nhằm thu được thật nhiều lợi nhuận trong thời gian kí kết hợp
đồng,nên họ ra sức bòn rút hết màu mỡ đất đai . Mac nói :”Mỗi bước tiến của công
nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến không những trong nghệ thuật bóc lột
người lao động ,mà còn là bước tiến trong nghệ thuật làm cho đất đai ngày càng
kiệt quệ; mỗi bước tiến trong nghệ thuật làm tăng màu mỡ cho đất đai trong một
thời gian là một bước tiến trong việc tàn phá những nguồn màu mỡ lâu dài của đất
đai.” Một ví dụ điển hình là ở Mỹ trước đây ,chế độ canh tác bất hợp lí đã làm
cho 16 triệu ha ruộng đất vốn màu mỡ đã trở thành bạc màu hoàn
toàn.
1.2.2. Địa tô tuyệt đối.
Ngoài địa tô chênh lêch địa chủ còn thu được địa tô tuyệt đối trong khi cho thuê
ruộng đất.
Phần trên, khi nghiên cứu địa tô chênh lệch chúng ta đã giả định là người thuê
đất xấu chỉ thu về chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân , và không tính
đến việc phải nộp địa tô.Thực ra không phải như vậy, người thuê ruộng đất dù là
đất tốt hay xấu đều phải nộp địa tô cho chủ đất. Địa tô mà các nhà tư bản thuê
ruộng đất nhất thiết phải nộp _”tuyệt đối” phải nộp dù ruộng đất tốt ,xấu như
thế nào , là địa tô tuyệt đối .Vậy các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất lấy
đâu mà
nộp?
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa , nông nghiệp lạc hậu hơn công nghiệp , cả về kinh
tế lẫn kĩ thuật . Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp vì vậy thấp hơn
trong công nghiệp . Cho nên nếu tỉ suất giá trị thặng dư tức là trình độ bóc lột
ngang nhau từ một tư bản ngang nhau sẽ sinh ra trong công nghiệp nhiều giá trị
thặng dư hơn trong nông nghiệp
.
Ví dụ : có hai tư bản nông nghiệp và tư bản công nghiệp ngang nhau,đều là 100
chẳng hạn; cấu tạo hữu cơ trong tư bản công nghiệp là 80c + 20v (4/1) của tư bản
nông nghiệp là 60c + 40v (3/2) nếu tỉ suất giá trị thặng dư đều là 100% thì sản
phẩm và giá trị thặng dư sản xuất ra sẽ
là.
Trong công nghiệp : 80c + 20v + 20m =
120
Trong nông nghiệp : 60c + 40v + 40m =
140
Giá trị thặng dư dôi ra trong nông nghiệp so với công nghiệp là
20m.
Nếu là trong công nghiệp thì số giá trị thặng dư này sẽ được đem chia chung cho
các nhà công nghiệp trong quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận . Nhưng
trong nông nghiệp điều đó không thể diễn ra được ,đó là chế độ độc quyền tư hữu
ruộng đất không cho phép tư bản tự do di chuyển vào trong nông nghiệp , do đó
ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình quân chung giữa nông nghiệp và công
nghiệp. Và như vậy ,phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân (
Nhờ cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp ,bóc lột được của công nhân
nông nghiệp nhiều hơn) được giữ lại và dùng để nộp địa tô tuyệt đối cho địa
chủ.
Vậy địa tô chênh lệch tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi ra
ngoài lợi nhuận bình quân, hình thành nên do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong
nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp mà bất cứ nhà tư bản thuê ruộng đất nào
cũng phải nộp cho địa chủ .Nó là số chênh lệch giữa giá trị nông phẩm và giá cả
thực tế hình thành nên do cạnh tranh trên thị trường
.
Địa tô tuyệt đối gắn liền với độc quyền tư hữu ruộng đất .Chính độc quyền tư hữu
ruộng đất làm cho lợi nhuận siêu ngạch hình thành trong nông nghiệp không bị đem
chia đi và làm cho lợi nhuận siêu ngạch đó phải chuyển hoá thành địa
tô.
Về địa tô tuyệt đối ,Mac nói :”...bản chất của địa tô tuyệt đối là :Những tư bản
ngang nhau của chúng sinh sản những khối lượng giá trị thặng dư khác nhau
“.
Để minh hoạ cho những điều nói trên chúng ta có thể lấy ví dụ sau
đây:
Do độc quyền về ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối , cho nên nếu
không có chế độ tư hữu về ruộng đất , không có giai cấp địa chủ , thì địa tô
tuyệt đối sẽ bị xoá bỏ , giá cả nông phẩm sẽ giảm xuống có lợi cho xã hội
.
Tóm lại , nêú điều kiện sản xuất có lợi (điều kiện tự nhiên hoặc điều kiện kinh
tế do thâm canh đưa lại ) là điều kiện hình thành địa tô chênh lệch và độc quyền
kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân trực tiếp để tạo ra địa tô chênh lệch ấy ,
thì điều kiện để hình thành địa tô tuyệt đối là cấu tạo hữu cơ của tư bản trong
nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp , và nguyên nhân trực tiếp đẻ ra địa tô
tuyệt đối là độc quyền tư hữu về ruộng đất
.
Song dù là địa tô chênh lệch hay địa tô tuyệt đối , nguồn gốc và bản chất của
địa tô cũng chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư , do lao động không công của
công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra . Nói cách khác ,địa tô chỉ là một
hình thái đặc thù của giá trị thặng dư mà thôi
.
Địa tô cùng với lợi nhuận của nhà tư bản nông nghiệp chính là cái xác định tính
qui định về mặt xã hội của tư bản kinh doanh trong nông nghiệp , nói lên tư bản
nông nghiệp là mối quan hệ bóc lột , gắn liền với một quan hệ bóc lột khác của
địa chủ do quyền tư hữu về ruộng đất sinh ra
.
1.2.3.Các loại địa tô
khác:
Ngoài
những loại địa tô trên còn có các loại địa tô khác như địa tô về cây đặc sản ,
địa tô về hầm mỏ , địa tô về các bãi cá , địa tô về đất rừng , thiên nhiên
…
a.Địa
tô về cây đặc
sản:
Là
địa tô thu được trên những đám đất trồng những cây quí mà sản phẩm có thể bán
với giá độc quyền , tức là giá cao hơn giá trị. Người tiêu thụ những sản phẩm
trên phải trả địa tô này
.
b.Địa
tô hầm
mỏ
Đất
hầm mỏ_đất có những khoáng sản được khai thác cũng đem lại địa tô chênh lệch và
địa tô tuyệt đối cho người sở hữu đất đai ấy.Địa tô hầm mỏ cũng hình thành và
được quyết định như địa tô đất nông
nghiệp.
c.Địa
tô đất xây dựng:
Địa
tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô đất nông nghiệp.Nhưng nó
cũng có những đặc trưng
riêng:
+Thứ
nhất,trong việc hình thành địa tô xây dựng ,vị trí của đất đai là yếu tố quyết
định,còn độ màu mỡ và trạng tháI của đất đai không ảnh hưởng
lớn.
+Thứ
hai,địa tô đất xây dựng tăng lên nhanh chóng do sự phát triển của dân số,do nhu
cầu về nhà ở tăng lên và do những tư bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày
càng tăng
lên.
d.Địa
tô độc quyền:
Địa
tô luôn luôn gắn liền với độc quyền sở hữu ruộng đất,độc chiếm các đIều kiện tự
nhiên thuận lợi,cản trở sự cạnh tranh của tư bản,tạo nên giá cả độc quyền của
nông sản.Tuy nhiên,có những loại đất có thể trồng những loại cây cho những sản
phẩm quý hiếm,có giá trị cao(như những vườn nho có thể cho những thứ rượu đặc
biệt)hay có những khoáng sản đặc biệt có giá trị,thì địa tô của những đất đai đó
sẽ rất cao,có thể xem đó là địa tô độc quyền .Nguồn gốc của địa tô độc quyền này
cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền cao của sản phẩm thu được trên
đất đai ấy mà nhà tư bản phảI nộp cho địa chủ_ người sở hữu những đất đai
đó.
Các
địa tô như địa tô về đất xây dựng , địa tô địa tô về hầm mỏ , địa tô về các bãi
cá , địa tô về đất rừng thiên nhiên ... tuy là địa tô thu được trên những đám
đất phi nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở của địa tô nông nghiệp theo đúng
nghĩa của từ này.Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa tô
chênh lệch . Mac nói :” Bất kì ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp lợi
dụng những sức tự nhiên ấy , chẳng kể đó là thác nước ,là hầm mỏ giàu khoáng sản
, là những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt ,thì số lợi nhuận
siêu ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về
quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa
tô".
CHƯƠNG
2
Vận
dụng lí luận về địa tô của Mac trong luật đất đai thuế nông nghiệp và việc thuê
đất ở ViệT
NAm
Thông
qua những lí luận về địa tô đã nghiên cứu ở trên , ta thấy địa tô tư bản chủ
nghĩa là sự bóc lột của chủ ruộng đất đối với công nhân nông nghiệp làm thuê .
Nó tồn tại ở nhiều hình thức : Địa tô chênh lệch , địa tô tuyệt đối , địa tô cây
đặc sản , địa tô về đất xây dựng , địa tô về hầm mỏ, địa tô về bãi
cá....
Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội , những
lí luận địa tô đó được Đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo trong
thực tiễn dể xây dựng đất nước giàu mạnh. Lí luận địa tô của Mac đã trở thành cơ
sở khoa học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp và các ngành có
liên quan nhằm kích thích phát triển nông nghiệp và các ngành trong nền kinh tế
.
2.1 .Vận dụng trong luật đất
đai:
Đất đai là một tài nguyên vô cùng quí giá , là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống là địa bàn phân bố các khu
dân cư , xây dựng các cơ sở kinh tế ,văn hoá , xã hội , an ninh và quốc
phòng.
Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao công sức xương máu mới tạo lập ,
bảo vệ được vốn đất như ngày nay. Ở mỗi chế độ đất đai lại thuộc về mỗi giai cấp
khác nhau , ví như sở hữu của thực dân Pháp ,của bọn quan lại quí tộc Phong kiến
, của địa chủ.... và dù ở chế độ nào cuối cùng Mac cũng kết luận :” Mỗi bước
tiến của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến không những trong nghệ
thuật bóc lột người lao động mà còn là bước tiến về mặt làm cho đất đai bị kiệt
quệ mà sự bóc lột đó được thực hiện dưới nhiều hình thức trong đó có địa
tô.”
Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lí
( Nhà nước của dân... ). Nhà nước giao đất , rừng cho các tổ chức kinh tế , đơn
vị vũ trang .. để sử dụng. ở đây thực hiện sự tách rời giữa quyền sở hữu với
quyền sử dụng ruộng đất nhằm sử dụng tài nguyên của đất nước một cách hiệu quả.
Để bổ sung cho nguồn nhân sách và thông qua ngân sách thực hiện một số chính
sách phát triển nông nghiệp những người thuê đất phải đóng thuế cho nhà nước .
Thuế này khác xa với địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa vì thuế này
tập chung vào ngân sách mang lại lợi ích cho toàn dân, nó không mang bản chất
bóc lột của địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ
nghĩa.....
2.2.Các
đIều
khoản:
Với việc vận dụng một cách sáng tạo lí luận về địa tô của Mac ,nhà nước ta đã
ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người
dân theo những điều khoản sau
:
Điều 1 :
đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân , do nhà nước thống nhất quản
lí.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế ,đơn vị vũ trang , nhân dân, cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị xã hội , hộ gia đình , cá nhân , sử dụng ổn định lâu
dài . Nhà nước còn cho tổ chức , hộ gia đình ,cá nhân thuê đất.Tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân đựoc nhà nước cho thuê đất , giao đất trong luật này gọi chung
là người sử dụng đất
.
Điều
4: Người sử dụng đất đai có trách nhiệm bảo vệ , cải tạo và sử dụng đất
hợp lí , có hiệu quả , phải làm đầy đủ thủ tục địa chính , nộp thuế chuyển quyền
sử dụng đất và các khoản thu khác theo qui định của pháp luật
.
Điều
5: Nhà nước khuyến khích người sử dụng đất đầu tư lao động, vật tư, tiền
vốn và áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào các việc sau
đây:
_
Làm tăng giá trị sử dụng đất
.
_
Thâm canh tăng vụ ,nâng cao hiệu quả sử dụng
đất.
_
Khai hoang , vỡ hoá , lấn biển để mở rộng diện tích đất , sản xuất nông nghiệp ,
lâm nghiệp , nuôi trồng thuỷ sản và làm
muối.
_
Bảo vệ ( tiết kiệm ) cải tạo làm tăng độ màu mỡ của đất
.
_
Sử dụng tiết kiệm đất
.
Điều
12: Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng
đất , thu tiền khi giao đất , bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất .
Chính phủ qui định khung giá các loại đất đối với từng vùng và theo từng thời
gian.
Điều 22:
Tổ chức ,hộ gia đình ,cá nhân được nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích sản
xuất nông nghiệp , lâm nghiệp , nuôi trồng thuỷ sản và làm muối không phải trả
tiền sử dụng đất , nếu được nhà nước giao đất dể sử dụng và mục đích khác thì
phải trả tiền sử dụng đất , trừ các trường hợp được miễn giảm theo qui định của
chính phủ.
Điều
79: Người sử dụng đất có những nghĩa vụ sau
đây:
1. Sử
dụng đất đúng mục đích , đúng ranh giới và các yêu cầu khác đã được qui định khi
giao đất .
2. Thực
hiện các biện pháp đẻ bảo vệ và làm tăng khả năng sinh lời của
đất.
3. Tuân
theo những qui định về bảo vệ môi trường , không làm tổn hại đến lợi ích chính
đáng của người sử dung đất xung
quanh.
4. Nộp
thuế sử dụng đất , thuế chuyển quyền sử dụng đất , lệ phí địa chính theo qui
định của pháp luật
.
5. Nộp
tiền sử dụng đất khi được giao đất theo qui định của pháp
luật
6. Đền
bù cho người có đất bị thu hồi để giao cho mình
.
7. Giao
lại đất khi nhà nước có quyết định thu hồi trong những qui định trên đây của
luật đất đai , người dân sử dụng đất phải có trách nhiệm bồi bổ cải tạo đất
...hay việc đóng thuế , tiền thuê đất... đều là một hình thức của địa tô
.
Hiện
nay nhà nước ta đang có những văn bản thu thuế sử dụng đất , đối với những nhà ở
mặt đường thì mức thuế nhà đất là 15000đ/1m2/năm.Còn với những nhà trong khu dân
cư thì thuế nhà đất là 10 000/1m2/năm.Tuy nhiên cho đến ngày 2/12/1998 Quốc hội
nước CHXHCN VIET NAM khoá X kì họp thứ tư đã thông qua luật sửa đổi bổ sung một
số điều của luật đất đai, từ đó ta càng thấy lí luận địa tô được vận dụng trong
luật đất đai một cách linh động như thế
nào.
Điều 22:
Được sửa đổi bổ sung như
sau:
“Nhà
nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trong trường hợp sau
đây:
1.1
Hộ gia đình , cá nhân trực tiếp lao động làm nông nghiệp , lâm nghiệp , nuôi
trồng thuỷ sản , làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có từ các hoạt động
sản xuất đó được uỷ ban nhân dân xã , phường , thị trấn xác nhận sử dụng đất vào
mục đích sản xuất nông nghiệp ,lâm nghiệp nuôi trồng thuỷ sản , làm muối trong
hạn mức đất được nhà nước giao
.
Hộ gia đình đang sử dụng đất nông nghiệp vượt quá hạn mức trước ngày luật này có
hiệu lực thì đước tiếp tục sử dụng diện tích đất vượt mức theo thời gian bằng
1/2 thời gian giao đất và phải nộp thuế bổ sung đối với diện tích đó theo qui
định của pháp luật ; sau thời hạn này thì phải chuyển sang thuế đất . đối với
diện tích đất vượt hạn mực có sau ngày luật này có hiệu lực thì người sử dụng
đất đó phaỉ nộp thuế đất
.
1.2
Tổ chức sử dụng đất để trồng và bảo vệ rừng phòng hộ , rừng đặc dụng
.
1.3
Cơ quan nhà nước ,tổ chức chính trị , tổ chức chính trị xã hội , Đơn vị vũ trang
nhân dân sử dụng đất để xây dựng trụ sở làm việc , sử dụng đất vào mục đích quốc
phòng an
ninh.
1.4
Cơ quan nhà nước , tổ chức chính trị , tổ chức chính xã hội , đơn vị vũ trang
nhân dân sử dụng đất để xây dựng các công trình thuộc các ngành và lĩnh vực sự
nghiệp kinh tế, văn hoá ,xã hội , khoa học kĩ thuật, ngoại
giao.
1.5
Tổ chức sử dụng đất vào mục đích công cộng để xây dựng đường giao thông , cầu ,
cống vỉa hè, hệ thống cấp thoát nước , sông , hồ , đe đập ,trường học , bệnh
viện ,công viên ,vườn hoa, khu vui chơi trẻ em, quảng trường , sân vận động ,
sân bay , bến cảng và các công trình công cộng khác theo qui định của chính phủ
.
Bổ sung điều 22a như sau
:
2.1
Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong các trường hợp sau đây
:
a. Hộ
gia đình , cá nhân có nhu cầu sử dụng đất làm nhà ở
.
b. Tổ
chức kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê
quyền sử dụng đất gắn liền với kết cấu hạ tầng
đó.
c. Tổ
chức kinh tế đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê
.
d. Giao
đất có thu tiền sử dụng đất đối với một số trường hợp để tạo vốn xây dựng cơ sở
hạ tầng theo dự án do chính phủ quyết định
.
2.2
Việc giao đất có thu tiền sử dụng đất được qui định tại điểm d khoản 1 điều này
phải bảo đảm các điều kiện sau
đây:
a. Người
sử dụng đất phải có dự án khả thi đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt .
b. Sử
dụng đất phải theo đúng kế
hoạch.
c. Người
sử dụng đất phải có điều kiện về vốn và kĩ thuật
.
Tiền thu được từ việc giao đất , tiền xây dựng công trình tương ứng với giá trị
quyền sử dụng đất được giao phải được hạch toán đaày đủ vào ngân sách nhà nước
theo qui định của pháp
luật.
3.
Bổ sung điều 22 C như sau
:
3.1
Tổ chức hộ gia đình , cá nhân , được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất ,
cho thuê đất được miễn giảm tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất trong các trường
hợp sau đây
:
a. Thực
hiện các dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư
.
b. Thực
hiện dự án đầu tư tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn , điều
kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn
.
c. Thực
hiện chính sách nhà ở , đất ở
.
d. Các
trương hợp khác theo quy định của pháp luật
.
3.2
Chính phủ quy định cụ thể việc miễn giảm tiền sử dụng đất , tiền thuê
đất
4
Bổ sung điều 78a như sau
:
4.1
Hộ gia đình cá nhân được nhà nước cho thuê đất mà trả tiền thuê đất hàng năm có
quyền :
a
. Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất thuê và tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
gắn liền với đất thuê trong thời hạn thuê tại tổ chức tín dụng VN để vay vốn sản
xuất , kinh doanh theo quy định Pháp luật
.
b
. Chuyền nhượng quyền sử dụng đất thuê cùng với tài sản thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất thuê để thừa kế quyền sử dụng đất thuê trong thời hạn thuê theo
quy định của pháp luật
.
Người
nhận chuyển nhượng , người được thừa kế quyền sử dụng đất thuê các quyền quy
định tại khoản này
.
4.3
Hộ gia đình cá nhân được nhà nước cho thuê đất đã trả tiền thuê đất cho nhiều
năm , nếu thời hạn thuê đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm thì có các
quyền quy định tại khoản 2 điều này
.
Bên
cạnh những quy định của luật đất đai về nghĩa vụ nộp tiền hay những lợi ích của
người nộp tiền thuê đất , ta thấy địa tô được Đảng và Nhà nước ứng dụng một cách
sáng tạo , đem lại lợi ích cho nhân dân , đồng thời làm cho quỹ NS của nhà nước
tăng lên , nó không hề mang tính chất bóc lột như trong XH phong kiến hay XH
TBCH .
Ngoài
ra , trong pháp luật về đất đai của NN ta hiện nay cũng ban hành những quy định
để người dân phải trả tiền thuê đất ( một hình thức của địa tô ) khi sử dụng đất
một cách tự nguyện
.
Việc
giao đất đối với các loại đất có thể khái quát theo bảng sau
đây
|
Loại
đất
|
Khi
giao
|
Khi
sử
dụng
|
|
|
1.Đất
nông
nghiệp
|
-
Giao ổn định lâu dài ho hộ gia đình, cá nhân từ
20-50m
-Không
nộp tiền sử dụng
đất
|
-Nộp
thuế sử dụng đất hàng
năm.
-Nộp
thuế chuyển quyền sử dụng đất khi chuyển nhượng
quyền sử dụng
đất
|
Thu
hồi đền bù thiệt hại hoặc trợ cấp theo quy định của
NN
|
|
2.Đất
ở
(
khu dân
cư)
|
-Giao
sử dụng ổn định lâu
dài.
-Phải
nộp tiền sử dụng
đất.
|
-nộp
thuế đất hàng
năm.
-Nộp
thuế chuyển quyền sử dụng đất, khi chuyển quyền sử dụng
đất.
| |
|
3.Chuyên
dùng
|
1.Giao
sử dụng vào quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng:
+)
Không phải nộp tiền sử dụng đất (được
miễn).
+)
Nộp lệ phí địa
chính.
2.Giao
sử dụng vào mục đích kinh
doanh.
+)
phải nộp tiền sử dụng
đất.
+)
cho thuê
đất.
|
-Không
nộp thuế sử dụng
đất.
-Nộp
thuế đất.
-Nộp
thuế chuyển quyền sử dụng đất, khi chuyển quyền sử dụng
đất.
-Trả
tiền thuê đất trực tiếp hoạch nhận nợ ngân sách nhà nước nếu góp vốn liên
doanh
| |
|
4.Đất
chưa sử
dụng
|
Tất
cả mọi trường hợp đều phải nộp lệ phí địa chính( nếu đươc phục vụ về địa chính).
Tuỳ trường hợp phải nộp lệ phí trước
bạ
|
| |
Số
tiền sử dụng đất được miễn và giảm nộp , được xác định như sau
:
|
Số
tiền sử dụng đất được miễn hoặc
giảm
|
=
|
Diện
tích đất được giao hoặc được phép chuyển mục đích sử dụng ( m2
)
|
*
|
Giá
đất mỗi mét
vuông
(
đ/m2
)
|
*
|
Tỷ
lệ được miễn hoặc
giảm
|
Việc
thhu tiền sử dụng đất khi xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở , quyền sử
dụng đất được thực hiện như sau
:
-
Trường hợp đất mua được sử dụng làm đất ở ổn định trước
ngày
18/12/1980
( ngày ban hành hiến pháp năm 1980 ) không có đử giấy tờ hợp lệ , nay xét phù
hợp quy hoạch không có tranh chấp và được UBND phương chứng nhận thì được xét
cấp chứng nhận quyền sở hữu nhà ở , quyền xử dụng đất ở và không phải nộp tiền
sử dụng đất
.
-
Trường hợp đất đã được sử dụng làm đất ở ổn định trong thời gian từ 18/12/1980
đến ngày 15/10/1993 ( ngày Luật đất đai có hiệu lực ) nhưng không có đủ giấy hợp
lệ này xét phù hợp với quy hoạch không có tranh chấp thì được cấp chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở , quyền sử dụng đất ở và phải nộp 20% tiền sử dụng đất
.
-
Trường hợp sử dụng làm đất ở sau ngày 15/10/1993 , không có đủ giấy tờ hợp lệ
này xét phù hợp với quy hoạch , không có tranh chấp thì được xét cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở phải nộp 100% tiền sử dụng đất .
Với những quy định trong Luật đất đai , nguồn đất của Quốc gia sẽ không bị sử
dụng bừa bãi , sẽ được cải tạo bồi bổ và mỗi người dân khi sử dụng đất đều phải
nộp thuế đất , chấp hành theo mọi quy định của nhà nước , đó cũng là một hình
thức để Nhà nước thu địa tô
.
Nhờ
việc phân tích về bản chất địa tô của Mác , Đảng và Nhà nước ta đã nhìn rõ được
những hạn chế trong việc thu địa tô TBCN , từ đó đề ra những quy định đúng đắn
,vừa tăng thêm được NS NN , vừa khuyến khích người dân tự nguyện thực hiện
.
Với
thời đại ngày nay , trong chế độ XHCN , địa tô không còn có định nghĩa : “ Địa
tô là hình thức biến tướng của một phần giá trị thặng dư do người công nhân nông
nghiệp tạo ra , mà nhà TB kinh doanh NN phải trả cho địa chủ
“
Mà
hiện nay , đất được cấp cho dân , dân có quyền sử dụng đất vào mục đích của
mình . Nếu đối với đất ở thì người dân chỉ phải nộp một khoản tiền thuê đất rất
nhỏ so với thu nhập của họ . Còn đối với đất để làm Nông nghiệp thì người dân
phải nộp thuế , nhưng bù lại , họ có thể tự do kinh doanh trên mảnh đất của mình
sao cho thu được nhiều lợi nhuận cao nhất
.
Ví
dụ: có vùng trồng lúa, có vùng trồng đay, có vùng trồng cà
phê...
2.3.Vận dụng trong thuế nông
nghiệp:
Địa
tô không chỉ được vận dụng trong luật đất đai mà còn được vận dụng rất nhiều
trong thuế nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Thuế nông nghiệp ở đây không hề thể
hiện sự bóc lột đối với người nông dân mà đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi người
nông dân.
Để khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, thực hiện công bằng, hợp lý
sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách nhà
nước.
Căn cứ vào điều 84 của hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra luật quy định sử dụng đất nông
nghiệp.
Điều
1: tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào sản xuất mà không sử dụng vẫn phải
nộp thuế sử dụng đất nông
nghiệp.
Họ vẫn được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp mà không sử dụng vẫn phải nộp
thuế sử dụng đất nông
nghiệp.
Điều
2: Đất chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp là đất dùng vào sản xuất nông
nghiệp bao
gồm:
- Đất
trồng
trọt.
- Đất
có mặt nước nuôi trồng thủy
sản.
- Đất
trồng
rừng.
Điều
3: Đất không thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp mà chịu các
loại thuế khác hoặc không phải chịu thuế theo quy định của pháp luật bao
gồm:
- Đất
có rừng tự
nhiên.
- Đất
đồng cỏ tự
nhiên.
- Đất
ở.
- Đất
chuyên
dùng.
Điều
4: Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sử dụng đất nông
nghiệp phải nộp tiền thuê đất theo quy định tại điều 29 của luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, không phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định
của luật
này.
Điều
5:
Căn cứ thuế sử dụng đất nông
nghiệp:
- Diện
tích.
- Hạng
đất.
- Định
suất thuế tính bằng kilogam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng
đất
Điều
6: Diện tích tính thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện tích giao cho hộ
sử dụng đất phù hợp với sổ địa chính nhà
nước.
Trường hợp chưa nộp sổ địa chính thì diện tích tính thuế là diện tích ghi trên
tờ khai của hộ sử dụng
đất.
Điều
7:
1. Đất
trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản
được
chia
làm 6 hạng, đất trồng cây lâu năm được chia làm 5
hạng.
Căn cứ để xác định hạng đất gồm các yếu
tố:
- Chất
đất.
- Ví
trị.
- Địa
hình.
- Điều
kiện khí hậu, thời
tiết.
- Điều
kiện tưới
tiêu.
2. Chính phủ quy định tiêu chuẩn hạng đất tính thuế theo các yếu tố nói tại
điều này và có tham khảo năng suất bình quân đạt được trong điều kiện canh tác
bình thường của 5 năm
(1986-1990).
3. Hạng đất tính thuế được ổn định 10 năm. Trong thời hạn ổn định hạng đất, đối
với vùng mà nhà nước đầu tư lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao, chính phủ điều
chỉnh lại hạng đất tính
thuế.
Điều
8: Căn cứ vào tiêu chuẩn của từng hạng đất và hướng dẫn của ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác
định hạng đất tính thuế cho từng hộ nộp thuế trình cơ quan xét
duyệt.
Điều
9: Định suất thuế một năm tính bằng kilogram thóc trên 1 hecta của từng
hạng đất
sau:
1. Đối
với đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thủy
sản.
|
Hạng
đất
|
Định suất
thuế
|
|
1
2
3
4
5
6
|
550
460
370
280
180
50
|
2. Đối
với đất trồng cây lâu
năm.
|
Hạng
đất
|
Định suất
thuế
|
|
1
2
3
4
5
|
650
550
400
200
80
|
3. Đối
với cây ăn quả lâu năm trồng trên đất trồng cây hàng năm chịu
mức
thuế
như sau:
- Bằng
1,3 lần thuế đất trồng cây hàng năm cùng hạng đất 1, hạng 2
và
hạng
3.
- Bằng
thuế đất trồng cây hàng năm cùng hạng, nếu thuộc đất hạng
4,
hạng
5 và hạng
6.
4. Đối
với cây lấy gỗ à các loại cây lâu năm thu hoạch một lần chịu
mức
thuế
bằng 4% giá trị sản lượng khai
thác.
Điều
10:
Hộ sử dụngđất nông nghiệp vượt quá hạn mức diện tích
theo quy
định
của luật đất đai, thì ngoài việc phải nộp thuế theo quy định tại điều 9 của luật
này, còn phải nộp thế bổ sung do uỷ ban thường vụ quốc hội quy định đối với phần
diện tích trên hạn
mức.
Đối
với một số trường hợp vẵn được nhà nước ưu đãi, giảm thuế và
miễn
thuế.
Đây chính là sự linh động của nhà nước trong việc vận dụng lí luận điạ tô của
Mác để tăng ngân sách quốc
gia.
Điều
19:
1. Miễn
thuế cho đất đồi núi trọc dùng vào sản xuất nông, lâm
nghiệp,
đất
trồng rừng, phòng hộ và rừng đạc
dụng.
2. Miễn
thuế cho đất khai hoang không thuộc quyền quy định tại khoản
1
điều
9 dùng vào sản
xuất.
Trồng cây hàng năm 5 năm. Riêng đối với đất khai hoang ở miền núi, đầm lầy và
lấn biển là 7
năm.
Đối với cây lấy gỗ và các loại cây lâu năm thu hoạch 1 lần chỉ nộp thuế khi khác
thác theo quy định tại khoản 4, điều này của luật
này.
3. Miễn
thuế cho đất trồng cây lâu năm chuyển sang trồng loại mới và
đất
trồng
cây hàng năm chuyển sang trồng cây lâu năm cây ăn quả. Trong thời gian xây dựng
cơ bản và cộng thêm 3 năm từ khi có thu
hoạch.
4. Chính
phủ quy định việc giảm thuế, miễn thuế đối với đất khai
hoang
được
đầy tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước.
Điều
26:
Hộ di chuyển đến vùng kinh tế mới khai hoang để sản xuất nông nghiệp được miễn
thuế trong thời hạn theo quy định tại điều 19 của luật này và cộng thêm 2
năm.
Nếu đất được giao là đất đang sản xuất nông nghiệp thì được miễn thuế trong thời
hạn 3 năm kể từ ngày nhận
đất.
Điều
21: Trong trường hợp thiên tai, dịch họa làm thiệt hại mùa màng, thuế sử
dụng đất nông nghiệp được giảm hoặc miễn cho từng hộ nộp thuế từng vụ sản xuất
như sau:
1. Thiệt
hại từ 10% đến dưới 20%, giảm thuế tương ứng theo mức
thiệt
hại.
2. Thiệt
hại từ 20% đến dưới 30%, giảm thuế
60%.
3. Thiệt
hại từ 30% đến dưới 40%, giảm thuế
80%.
4. Thiệt
hại từ 40% trở lên giảm thuế
100%.
Điều
22:
1. Miễn
thuế hoặc giảm thuế cho các hộ nông dân sản xuất ở vùng
cao,
miền
núi, biên giới, hải đảo mà sản xuất và đời sống còn nhiều khó
khăn.
2. Miễn
thuế hoặc giảm thuế cho các hộ nông dân là dân tộc thiểu số
mà
sản
xuất và đời sống còn ngiều khó
khăn.
3. Miễn
thuế cho các hộ nông dân là những người tàn tật, già yếu
không
nơi
nương tựa.
Điều
23:
1. Miễn
thuế cho hộ nộp thuế có thương binh hang 1/4 và 2/4, bệnh
binh
hang
1/3 và
2/3.
2. Miễn
thuế hoặc giảm thuế cho hộ nộp thuế là gia đình liệt
sĩ.
3. Giảm
thuế cho hộ nộp thuế có thương binh, bệnh binh không
thuộc
diện
miễn thuế theo quy định tại khoản 1 điều này mà đời sống có nhiều khó
khăn.
Điều 24:
Chính phủ quy định chi tiết việc giảm thuế, miễn thuế sử dụng đất nông
nghiệp.
Việc giảm, miễn thuế cho những người dân có hoàn cảnh đặc biệt là một điều khác
xa với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa, điều này cho thấy sự sáng tạo của Đảng
ta trong việc ứng dụng lí luận địa tô của Mác khi đề ra chính sách thuế nông
nghiệp động viên thúc đẩy người dân sản xuất làm cho dân giàu nước
mạnh.
Hiện nay, tổng cục thuế đã ban hành quy trình miễn giảm thuế sử dụng đất nông
nghiệp số 137 TCT/ QD / NV7 ngày 21/8/2001 cho các đối tượng chính sách xã hội
như sau:
Căn cứ vào đơn đề nghị miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp của các hộ nộp
thuế thuộc đối tượng chính sách xã hội. Đội thuế xã hội phối hợp với hộ đồng tư
vấn thuế xã hội danh sách các hộ nộp thuế thuộc diện được miễn giảm thuế theo
từng loại đối tượng chính sách xã hội như: hộ gia đình có công với cách mạng,
hộ đời sống có bệnh binh, hộ gia đình liệt sĩ, thương binh, hộ gia đình có
nhiều khó khăn và đầu năm giảm thuế cho các hộ
này
(
báo Pháp luật số 159 ra ngày
29/8/2001)
Đối với các trường hợp bị thiên tai, dịch họa làm mùa màng thiêt hại ,tổng cục
thuế cũng quy
định:
Trươc hêt là phải xác định mức độ thiệt hại mùa màng để xét miễn giảm thuế. Ngay
sau thời điểm xảy ra thiên tai làm thiệt hại mùa màng. Đến vụ thu hoạch, chi cục
thuế tỉnh chỉ đạo các chi cục thuế huyện nơi có thiên tai phối hợp với các ngành
có liên quan ở huyệnh như : thống kê, nhà nước ... hướng dẫn kiểm tra các xã,
xác định năng suất sản lượng thu hoạch thực tế của diện tích bị thiệt hại theo
từng cánh đồng, xử đồng khu vực và lập biên bản thăm đồng. Sau đó tuỳ theo thiệt
hại mà xét giảm thuế ( báo Pháp luật số 158 ngày
27/8/2001)
Trên báo Tiền phong số ra ngày 27/8/2001 cũng cho biết Đảng và Nhà Nước ta đã
quyết định xoá bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền để giảm bớt khó
khăn cho người nông dân. Cuối năm 2001 và sang 2002, bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn có văn bản trình thủ tướng chính phủ về việc giảm thuế sử dụng
đất cho nông nghiệp. Trong quá trình thực hiện chính sách, nhà nước đã thường
xuyên thực hiện chủ trương “khoán sức dân, từng bước giảm mức động viên khoảng
20% trên sản lượng quy thóc hàng năm đã giảm xuống 10-12%. Tuy chính sách giảm
thuế đã có tác động tích cực với đời sống xã hội khu vực nông thôn nhưng vẫn
phát sinh một số vấn đề chưa hợp lý: việc giảm 50% thuế nông nghiệp chỉ áp
dụng đối với diện tích trồng lúa và cà phê, còn đối với nhiều loại hàng nông sản
khác như chè, hạt tiêu, cũng bị thiệt hại, tuy đã được
xét miễn giảm nhưng chưa kịp thời và đồng đều giữa các vùng
miền...
Ngày 1/3/2002, trao đổi với phóng viên báo Tiền phong, ông Nguyễn Đức Triều – ủy
viên trung ương Đảng, chủ tịch hội nhân dân Việt Nam cho biêt. Tại hội nghị ban
chấp hành trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá IX). Các đại biểu đã thống nhất việc
xóa bỏ thuế hạn điền cho người nông dân. Mức hạn điền tại các địa phương trên
cả nước hiện nay được áp dụng theo nghị định 85/CP của chính phủ. Cụ thể: đối
với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm nuôi trồng thuỷ sản và làm muối thì
mức hạn điền của các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ, An
Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Tây Ninh,
Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa, Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh là
không quá 3 hecta cho mỗi loại đất. Còn các tỉnh và thànhh phố trực thuộc trung
ương khác không quá 10 hecta, các xã trung du, miền núi không quá 30 hecta.
Những hộ vượt mức hạn điền phải nộp thuế theo quy định của luật thuế sử dụng
đất.
Có thể nói việc xoá bỏ hạn điền là tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho người
nông dân. Điều này cho thấy sự tích cực vượt bậc của Đảng và Nhà Nước ta so với
việc thu địa tô trong tư bản chủ
nghĩa.
Trên đây là những ứng dụng lí luận của Mác về địa tô trong việc đề ra thuế nông
nghiệp cũng như luật đất đai để quy định nghĩa vụ quyền lợi đóng thuế của người
dân.
Sự khác biệt rõ nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với giai
đoạn tư bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản lý và điều
hành, nhà nước giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế nhưng tạo mọi điều
kiện cho người dân sản xuất. Mặt khác, nhà nước còn đưa ra một số quy định cho
thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm đi rất nhiều mà chủ yếu là tăng thuế
trong việc thuê đất để hoạt động phi nông
nghiệp.
+ Trường hợp chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích từ đất
nông nghiệp sang phi nông nghiệp thì thuế suất từ 20% đến 40%, nếu từ đất nông
nghiệp chuyển sang xây dựng các công trình công nghiệp từ 40% sang 60%, nếu từ
đất trồng lúa ổn định chuyển sang mục đích phi nông
nghiệp.
+ Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục đích
nông nghiệp thì không phải trả tiền sử dụngđất cho nông nghiệp, nếu sử dụng vào
mục đích khác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang hình thức thuê đất
nếu là tổ chức sử dụng đất ở trong
nước.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/ly-luan-ve-dia-to-cua-cacmac-va-su-van-dung-vao-chinh-sach-dat-dai-o-viet-nam-hien-nay.html
2.4.
Vận dụng trong việc cho thuê đất.
Bên cạnh nghiên cứu việc thuê đất để phát triển nông nghiệp thì một điều mà
chúng ta, những người kinh doanh trong tương lai không thể không quan tâm đến.
Đó là việc thuê đất để kinh
doanh.
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một công ty thì họ phải
thuê đất của nhà nước, với việc thuê đất này họ phải trả cho nhà nước một số
tiền tương đương với diện tích cũng như vị trí của nơi được
thuê.
Trong việc thuê đất để kinh doanh nhà nước cũng quy định
rõ:
·
Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình tại ngân hàng Việt Nam để vay vốn sản xuất trong thời hạn thuê. Giá trị thế
chấp do ngân hàng quyết định và không vượt quá giá trị tài sản đẫ đầu tư trên
khu đất thế chấp cộng với tiền thuê đất đã trả. Khi đến thời hạn mà không trả
nợ thì ngân hàng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát mại tài sản trên
đất mà tổ chức đã thế chấp để trả nợ ngân hàng và quyết định cho người mua tài
sản được tiếp tục thuê
đất.
·
Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp
quốc phòng, an ninh trong thời hạn thuê đất được góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng đất để liên doanh tổ chức, cá nhân trong nước với tổ chức cá nhân nước
ngoài...
·
Đặc biệt các tổ chức được nhà nước cho thuê đất có nghĩa vụ trả tiền thuê đất
đầy đủ đúng thời hạn quy định. Tiền thuê được nộp hàng năm và được hạch toán vào
giá thành sản xuất, kinh doanh hằng năm của tổ chức thuê đất. Ngoài ra, còn phải
đền bù thiệt hại cho người có đất bị thu hồi để giao cho tổ chức này thuê theo
quy định của nhà
nước.
Điều này cho thấy một sự khác biệt và sự vận dụng lí luận của Mác về địa tô của
Đảng ta trong thời đại ngày nay. Đó chính là việc nhà nước sử dụng những văn
bản pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của người thuê đất để người dân khi nộp
tiền thuê đất đều thông suốt và tự nguyện
đóng.
Trong việc thuê đất để kinh doanh thì người thuê đất đã thuê đất của nhà nước,
sau đó phát triển kinh doanh trên mảnh đất của mình và lấy lợi nhuận mà mình làm
xa để trả cho nhà
nước.
Ví dụ: nhà nước đã quy hoạch khu đô thị Định Công, xây dựng những kiôt và cho
những người kinh doanh thuê, người này có thể tự kinh doanh trên kiôt của mình,
một phần lợi nhuận mà họ thu được trong việc kinh doanh sẽ được trả cho nhà
nước, số tiền đó được cho vào ngân sách nhà
nước.
Hiện nay, không chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc kinh doanh mà
nhà nước còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài
tại Việt Nam, và tăng nguồn thu cho ngân sách. Số tiền mà người nước ngoài phải
trả được quy định như
sau:
2.4.1. Về giá thuê đất ở đô
thị:
Một trong những nội dung cơ bản cua hợp đồng thuê đất và là mối quan tâm hàng
đầu của bên thuê là giá thuê đất. Việc quyết định giá cho thuê đất ở Việt Nam
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng phải đảm bảo sức hấp dẫn đối với các dự án
đầu tư nước ngoài, phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều kiện kinh tế chính
trị-xã hội của đất nước ta hiện
nay.
Theo Quyết định số 179/QD-BTC ngày 24/02/1998 thì giá thuê đất ở đô thị
là:
¨
Đô thị loại 1: 1,00 ¸ 12,00
USD/m2/năm.
¨
Đô thị loại 2: 0,80 ¸
9,60
USD/m2/năm.
¨
Đô thị loại 3: 0,60 ¸
7,20
USD/m2/năm.
¨
Đô thị loại 4: 0,35 ¸
4,20
USD/m2/năm.
¨
Đô thị loại 5: 0,18 ¸
2,16
USD/m2/năm.
Đối với đô thị thuộc địa bàn vùng núi, vùng sâu, vùng xa, địa bàn có điều kiện
kinh tế xã hội khó khăn, giá thuê đất được xác định bằng 80% mức quy định chung.
Các thị trấn ở các vùng này, giá thuê đất đô thị được xác định như
sau:
|
Đơn giá Mức giá tối Hệ số Hệ
số
thuê đất = thiểu cho từng ´ vị ´ ngành
(USD/m2/năm)
nhóm đô thị trí
nghề
|
a.Hệ
số vị trí:
Hệ số vị trí được chia làm 4
loại:
§ Vị
trí 1 có hệ số là 3. Áp dụng cho các lô đất, thửa đất có mặt tiền tiếp giáp với
đường phố chính của đo thị, đầu mối giao thông nội đô thị, rất thuận lợi cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt, có khả năng sinh
lợi cao nhất, có giá đất thực tế cao
nhất.
§ Ví
trí 2 có hệ số 2,5. Áp dụng cho lô đất có mặt tiền không tiếp giáp với đường phố
chính, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt
và có khả năng sinh lợi kém vị trí 1, có giá đất thực tế trung bình thấp hơn giá
đất thực tế của vị trí
1.
§ Vị
trí 3 có hệ số là 2. Áp dụng cho các lô đất có mặt tiền không tiếp giáp nội
đường phố, tương đối thuận lợi với các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ,
du lịch, sinh hoạt và có khả năng sinh lời kém vị trí số 2, có giá đất thực tế
trung bình thấp hơn so với vị trí
2.
§
Ví trị 4 có hệ số là 1. Áp dụng cho các lô đất không có mặt tiền tiếp giáp với
đường phố, ngõ phố, kém thuận lợi đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, du lịch, sinh hoạt có giá đấu thấp nhất trong đô
thị.
b.Hệ
số kết cấu hạ tầng.
· Hệ
số 2 áp dụng cho các lô đất có đủ 3 điều
kiện:
+ Giao thông thuận
lợi.
+ Có công trình cấp trên ở gần nơi thực hiện dự án, có thể đáp ứng được các nhu
cầu của dự
án.
+ Có hệ thống cấp nước gần hàng rào công trình có thể sử dụng cho dự
án.
· Hệ
số 1,7 áp dụng cho lô đất thiếu một trong các điều kiện
trên.
· Hệ
số 1,4 áp dụng cho lô đất thiếu hai điều kiện
trên.
· Hệ
số 1 áp dụng cho lô đất thiếu cả 3 điều kiện
trên.
c.
Hệ số ngành
nghề
· Hệ
số 2 áp dụng cho các ngành thương mại và du lịch khách sạn, nhà hàng, tài chính,
tư vấn, môi giới, kinh doanh bất động sản (trừ kinh doanh cơ sở hạ tầng, xây
dựng nhà ở để bán hoặc thuê), ngân hàng, bảo hiểm, kiểm
toán.
·
Hệ số 1 áp dụng cho các ngành sản xuất là phân phối điện, cấp nước và thóat
nước, công nghiệp khai thác mỏ, luyện kim sản xuất máy móc, thiết bị và phương
tiện vận tải hoá chất cơ bản, phân dãn khí, công nghiệp chế biến sản phẩm nông
lâm, thuỷ sản, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, khám và chữa bệnh, thiết bị và
phương tiện y tế, thể dục thể thao, xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường và xử lý
chất thải đất xây dựng cầu đường, kinh doanh cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà ở để
bán hoặc cho thuê, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao và các cơ
sở sản xuất sử dụng công nghệ
cao.
·
Hệ 1,5 áp dụng cho các ngành nghề khác không thuộc các ngành nghề áp dụng hệ số
2 và hệ số
1.
1. Đối
với đất tại các vùng núi đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng.Nếu
sử
dụng
cho các dự án không phải là sản xuất, công nghiệp, dịch vụ, du lịch, thương mại
thì đơn giá thuê đât được tính từ 30 đến 100 USD/ha/năm. Những vùng đất khác
được tính từ 100 dến 600
USD/ha/năm.
2. Đối
với mặt nước sông, hồ, vịnh tiền thuê đất từ 75 đến
525
USD/km2/năm.
Mặt biển có đơn giá tiền thuê là từ 150 đến 600 USD/km2/năm. Đối với
trường hợp thuê đất có diện tích sử dụng không cố định thì áp dụng mức tiền thuê
từ 150 đến 750
USD/năm.
Mức tiền thuê đất nêu trên không bao gồm chi phí đền bù, giải toả. Sau mỗi thời
hạn 5 năm nếu xét thấy cần thiết thì bộ tài chính sẽ xem xét và điều chỉnh mức
tiền thuê. Khi điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt quá 15% của mức quy định
lần trước.
Trên quy định của bộ tài chính về tiền thuê đất mặt nước, mặt biển áp dụng đối
với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo đề nghị của giám đốc sở
tài chính, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
sẽ:
- Quyết
định đơn giá thuê đất đối với dự án do mình cấp giấy phép
đầu
tư.
- Đề
nghị bằng văn bản đơn giá thuê đất đối với dự án do mình cấp
giấy
phép
đầu tư.
- Đề
nghị bằng văn bản về đơn giá thuê đất đối với dự án thuộc
thẩm
quyền
cấp giấy phép của bộ kế hoạch và đầu tư ủy quyền cấp giấy phép. Trong trường hợp
này, bộ kế hoạch và đầu tư (ủy quyền cấp giấy phép) hoặc cơ quan được bộ kế
hoạch và đầu tư ủy quyết sẽ quyết định việc thuê giá
đất.
3.Thời
điểm tính tiền là thời điểm doanh nghiệp được bàn giao đất để
sử
dụng.
Trường hợp chưa bàn giao đất mà doanh nghiệp đã sử dụng đất thì thời điểm tính
tiền thuê đất tính từ thời điểm doanh nghiệp sử dụng
đất
Tiền thuê đất được nộp mỗi năm 20, mỗi lần nộp 50% . Khuyến khích việc trả tiền
một lần trong thời hạn 5 năm và trên 5 năm. Một tỷ lệ giảm nhất
định
được
ghi nhận rõ tại quyết định H9 của bộ tài chính Việt Nam. Nếu trả cho 5 năm thì
được giảm 5% số tiền thuê đất của 5 năm đó. Trả tiền cho thời hạn thuế đất trên
5 năm thì mỗi năm tăng thêm được giảm 1% số tiền thuê đất phải trả, nhưng tổng
mức không giảm quá 25% số tiền thuê đất phải trả của thời gian này. Trường hợp
trả tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian thuê đất trên 30 năm thì được giảm 30%
số tiền thuê đất phải
trả.
Với những quy định rõ ràng trên đây thì việc nộp tiền thuê đất sẽ diễn ra một
cách dễ
dàng.
Có một hình thức thuế mà cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại rất rõ. Đó là địa tô
độc quyền. Trong các thành phố lớn, ở các khu đất có vị trí thuận lợi cho phép
xây dựng các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nàh cho thuê có khả
năng thu lợi lớn thì giá thuê nhà, đất rất
cao.
Đến đây, sau khi đã nghiên cứu kỹ về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng như
trong một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tô vẫn còn
tồn tại nhưng về bản chất của nó hoàn toàn khác so với địa tô tư bản chủ nghĩa
hay địa tô phong
kiến.
Nếu như trong xã hội phong kiến, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, người sử dụng
đất phải nộp tô cho địa chủ . Tô đó là do các nhà điạc chủ năm giữ và hưởng thì
ngày nay, điạ tô hay nói cách khác là thuế đất, thuế nhà, tiền thuê đất đều
được nộp vào ngân sách nhà nước. Nguồn ngân sách đó lại được dùng vào những việc
công nhằm xây dựng đất
nước.
Tuy
nhiên trong việc sử dung lí luận của Mác về địa tô vào trong luật đất đai, thuế
nông nghiệp và một số ngành khác vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, hạn
chế.
-
Như việc nhà nước thu đất của nông dân với giá rất rẻ (khoảng mấy chục ngàn một
m2) sau đó quy hoạch, xây dựng nhà ở... và cho thuê với giá rất cao.
Đây cũng là một vấn đề cần kiến nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền bù
thỏa đáng.
- Ngay cả trong việc thực hiện xoá bỏ thuế hạn điền cũng phải gặp nhiều vướng
mắc để thực hiện được nhanh chóng thì các địa phương cần rà soát lại hệ thống
chính sách đất đai ở nhiều nơi rành mạch hoá phần diện tích cuả từng hộ nông
dân, nhất là với diện tích đất nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ven biển, nơi mà
nhiều nông ngư dân đã chuyển nhượng quyền sử dụng cho nhau, xác định chủ sở hữu
ở những nơi này sẽ gặp khó khăn hơn trước. Bên cạnh đó việc xoá bỏ thuế hạn điền
cho người nông dân sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của các cấp chính quyền
địa phương đặc biệt là cấp xã. Họ sẽ gặp khó khăn trong chi trả phụ cấp cho cán
bộ xã đang làm việc trực tiếp. Nhà nước nên có những hỗ trợ ngân sách trong một
vài năm đầu, sau đó các địa phương phải từ vượt lên khó khăn tận thu các nguồn
để dần tự trang
trải.
Trong
việc cho người nước ngoài thuê đất cũng gặp nhiều khó khăn. Ngày 27/3 tại Hà
Nội, tổng cục điạc chính và câu lạc bộ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã
tổ chức hội nghị lấy ý kiến góp ý kiến cho dự thảo sửa đổi, bổ sung pháp lệnh về
quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam. Với nội
dung sửa đổi lần này là mở rộng hình thức sử dụng đất, có những ý kiến cho rằng
nếu cho phép việc thuê đất của nông dân thì sẽ xảy ra tình trạng nhà đầu tư
thành điạ chủ khi họ thuê hết đất sản xuất của nông dân rồi lại thuê nông dân
làm công trên chính mảnh đất đó. Bởi vậy nhà nước phải quy định chi tiết các
điều kiệ ràng buộc thật chặt chẽ để nhằm kiểm soát được nếu pháp lệnh sửa đổi mở
thêm hình thức cho phép nhà đầu tư nước ngoài thuê lại đất của nông dân (báo
Tiền phong số 63 ra ngày
28/3/2002).
Mặc dù hiện nay vấn đề thu địa tô (thuế đất và tiền thuê đất) có những cải tiến
vượt bậc so với trước nhưng đôi khi vẫn gặp những bất lợi trong công tác thu
tiền và chỉ đạo người dân thi hành nghĩa vụ nộp thuế. Vì vậy, nhà nước đã phải
đưa ra những giải pháp thật kịp thời. Ngày 6/5/2020, tại thành phố Hồ Chí Minh
diễn ra cuôc họp của ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh triển khai chỉ thị số
08 về chấn chỉnh và tăng cường quản lý nhà nước vè nhà đất trên địa bàn thành
phố Hồ Chí
Minh.
Các đơn vị và cá nhân trong diện kê khai phải kê khai về việc thực hiện nghĩa vụ
tài chính, trong đó xem đã nộp đủ tiền sử dụng đất hay chưa, số tiền đã nộp,
đồng thời ghi tương ứng với số diện tích đã nộp tiền sử dụng đất thì tương ứng
với số tiền phần trăm so với tổng số diện tích được giao. Cần ghi rõ phần lệ phí
trước bạ đã nộp và đã đạt bao nhiêu phần trăm so với nghĩa vụ phải
nộp.
KẾT
LUẬN
Sau
khi nghiên cứu về lý luận địa tô của Mác , cũng như những ứng dụng sáng tạo của
Đảng ta trong việc đề ra luật đất đai , thuế nông nghiệp và những quy định về
thuế đất , ta thấy đây là một vấn đề rất cấp thiết mà những người làm kinh tế
cần phải quan tâm
.
Hiện
nay , việc thu thuế trong nông nghiệp đã được giảm đi rất nhiều, mà việc nộp
thuế đang dần chuyển sang các nhà kinh doanh thuê đất để làm ăn. Nếu như trong
chế độ TBCN , địa tô được thực hiện chủ yếu trong NN và khoản tô đó thuọc quyền
sở hữu của địa chủ , thì ngày nay khoản thuế đó lại được giảm trong nông nghiệp
và do NN quản lý , số tiền đó nằm trong NS quốc gia dùng vào các việc XH như xây
trường học , bệnh viện
...
Với
việc thu thuế như ngày nay , NN vừa thúc đẩy được sự phát triển sản xuất trong
NN , khuyến khích người dân sản xuất lại vừa tăng thêm nguồn NS cho NN
.
Tuy nhiên ,
việc nghiên cứu đề tài này cũng gặp nhiều khó khăn , và đây là một vấn đề ít
được chú ý đối với những nhà kinh tế , khó tìm tư liệu ,và đặc biệt đây là vấn
đề rất khó tư duy , nhưng em rất mong nhận được sự giúp đỡ và sự chỉ bảo tận
tình của thầy giáo
.
MỤC
LỤC
A. PHẦN MỞ
ĐẦU.................................................................................................... 2
B.CHƯƠNG 1:Lí luận về địa
tô của C.
Mác......................... 3
1.1.So sánh địa tô tư bản chủ nghĩa với địa
tô phong
kiến:.......................................... 3
1.1.1: Sự giống
nhau................................................................................................... 3
1.1.2:Sự khác
nhau:.................................................................................................... 3
a.Về mặt
lượng....................................................................................................... 3
b.Về mặt
chất.......................................................................................................... 4
1.2.Các hình thức địa tô Tư
Bản................................................................................... 4
1.2.1.Địa tô chênh
lệch............................................................................................... 4
a.Địa tô chênh lệch
1............................................................................................. 6
b.Địa tô chênh lệch
2............................................................................................. 7
1.2.2.Địa tô tuyệt
đối................................................................................................. 8
1.2.3.Các loại hình thức địa tô
khác........................................................................ 10
a.Địa tô về cây đặc
sản........................................................................................ 10
b.Địa tô về hầm
mỏ.............................................................................................. 10
c.Địa tô về đất xây
dựng..................................................................................... 10
d. Địa tô độc
quyền............................................................................................. 10
C.CHƯƠNG 2: Vận dụng lí
luận về địa tô của Mác trong luật đất đai thuế nông nghiệp và việc thuê đất ở
Việt Nam
2.1.Vận dụng trong luật đất
đai.................................................................................. 12
2.2 Các đIều khoản về luật đất
đai............................................................................. 13
2.3.Vận dụng trong thuế nhà
nước............................................................................. 19
2.4.Vận dụng trong việc cho thuê
đất........................................................................ 27
2.4.1.Về giá thuê đất ở đô
thị................................................................................... 28
a.Hệ số vị
trí........................................................................................................ 29
b.Hệ số kết cấu hạ
tầng....................................................................................... 29
c.Hệ số ngành
nghề............................................................................................. 30
D. KẾT
LUẬN........................................................................................................... 34
E.TÀI LIỆU THAM
KHẢO:..................................................................................... 35
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/ly-luan-ve-dia-to-cua-cacmac-va-su-van-dung-vao-chinh-sach-dat-dai-o-viet-nam-hien-nay.html
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
MỞ
ĐẦU
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên
trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Công nghiệp
hoá và hiện đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế
phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển
đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản
lý của Nhà nước.
Đọc
thêm »
MỞ
ĐẦU
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên
trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Công nghiệp
hoá và hiện đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế
phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển
đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản
lý của Nhà nước.
Khi
nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền công nghiệp hoá hiện
đại hoá thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển
là tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ công
nhân viên chưa cao. Vì thế, cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết
nhiều vấn đề cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra.
Đặc
biệt vấn đề về lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề kinh tế lớn của Nhà
nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển
kinh tế nước ta hiện nay.
Việt
Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng
tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế
mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, thì lợi
ích kinh tế của các doanh nghiệp nói riêng và lợi ích của toàn xã hội nói chung
luôn được quan tâm hàng đầu.
Bên
cạnh những thành công, tiến bộ của một số Doanh nghiệp thì còn không ít những
Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi
trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình
trạng hoạt động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động
khi chuyển sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao
hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc
xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp chưa được
chú ý đúng mức, nhiều Doanh nghiệp còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải
pháp cho việc đẩy mạnh kinh doanh .
Nhận
thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân tích kết
quả hoạt động kinh doanh, thì ta có thể thông qua những hình thức phân phối thu
nhập của doanh nghiệp đó. Do đó tôi đã chọn đề tài: “Lợi ích kinh tế và các hình
thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho bài nghiên cứu khoa
học của mình và hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ vào lý luận và phương
pháp xây dựng để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường hiện nay của Việt Nam.
-Mục
tiêu nghiên cứu: nhằm chỉ ra cho người đọc hiểu rõ được thế nào là lợi ích kinh
tế nói chung. Từ đó thông qua lý luận chỉ ra rằng tính tất yếu cho các doanh
nghiệp là phải quan tâm đến lợi ích kinh tế. Mà trước hết và sát thực nhất là
hình thức phân phối thu nhập hợp lý.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/loi-ich-kinh-te-va-cac-hinh-thuc-phan-phoi-thu-nhap-o-viet-nam-hien-nay.html
Chương
1
Lý
Luận cơ bản về lợi ích kinh tế
1.1.Bản
chất ,đăc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế
1.1.1.Lợi
ích kinh tế:
Ngay từ khi mới xuất hiện,con người đã tiến hành các hoạt dộng kinh tế hoạt
động kinh tế luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và nó là cơ
sở cho các hoạt động khác.Trong hoạt động kinh tế,con người luôn có động cơ nhất
định.Động cơ thúc đẩycon người hành động.Mức độ hành động mạnh hay yếu tuỳ thuộc
vào mức độ chín muồi của động cơ- tuỳ thuộc vào nhận thức và thực hiện lợi ích
của họ.Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập là những vấn đề rộng lớn liên quan
đến các hoạt động kinh tế,văn hoá,xã hội của nhà nước và nhân dân lao động,trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Chính vì thế mà em chọn đề tài:Lợi
ích kinh tế và phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Lợi ích là gì?Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích, ích lợi , có lợi được sử dụng như
là cùng nghĩa và có thể thay thế nhau.Lợi ích không phải là cái gì trừu tượng và
có tính chất chủ quan,mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan của con người
.Con người có nhiều loại nhu cầu(vật chất,chính trị,văn hoá), do đó có nhiều
loại lợi ích(lợi ích kinh tế ,lợi ích chính trị,lợi ích văn hoá,tinh thần)
Lợi
ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan,nó xuất hiện trong những điều
kiện tồn tại là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ
thể kinh tế.Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã
hội thì nó trở thành cơ sở,nội dung của lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất,nó được quy định
một cách khách quan bởi ohương thức sản xuất,bở hệ thống quan hệ sản xuất,trước
hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.Ph.Ănghen viết:"những quan hệ kinh tế
của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi
ích".V.I.Lênin cũng cho rằng:Lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác được
xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ thống quan hệ sản
xuất,theo những hoàn cảnh và đIều kiện sống của họ.
Là
hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất,lợi ích kinh tế thể hiện trong tất cả
bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.Cần khẳng định rằng,ở đâu có hoạt
động sản xuất-kinh doanh thì ở đó có lợi kinh tế và chủ thể sản xuất-kinh doanh
cũng là chủ thể của lợi ích kinh tế.
1.1.2.Vai
trò của lợi ích kinh tế:
Lợi
ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống.Chính
những lợi ích kinh tế đã gắn bó con người với cộng đồng của mình và tạo ra những
kích thích,thôi thúc,khát vọng và sự say mê trong hoạt động sản xuất-kinh doanh
cho người lao động.Lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiên đúng thì nó sẽ là
động lực kinh tế thúc đẩy con người hành động.Do đó,lợi ích kinh tế thể hiện như
là một trong những động lực cơ bản của sự tiến bộ xã hội nói chung,phát triển
sản xuất-kinh doanh nói riêng.Ph.Ăngghen cho rằng,lợi ích kinh tế là những
động cơ đã lay chuyển những quần chúng đông đảo.Và khi chúng biến thành sự kích
thích hoạt động của con người :"thì chúng lấy động đời sống nhân dân"
Lợi
ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố,duy trì các mối quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể sản xuất -kinh doanh.Một khi con người(chủ thể)tham gia
vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi ích kinh tế tương xứng với
kết quả sản xuất kinh doanh thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát
triển của các chủ thể lợi ích.Ngược lại,khi không mang lại lợi ích hoặc lợi ích
không được đầy đủ thì sẽ làm cho các mối quan hệ đó(quan hệ giữa các chủ
thể)xuống cấp. Nếu tình trang đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tiêu cực trong
hoạt động sản xuất-kinh doanh.
Lợi ích kinh tế thiết thân của cá nhân người lao động là động lực trực tiếp
đối với sự hoạt động của từng con người nói riêng và của cả xã hội nói
chung.
Trong giai đoạn lịch sử hiện nay của đất nước, các lợi ích kinh tế, lợi ích
trứơc mắt của các cá nhân đang là cấp bách nhất, vì thế , nó cũng đang đóng vai
trò quan trọng hơn cả trong việc thúc đẩy các chủ thể hoạt động và qua đó gây
nên sự vận động , phát triển của xã hội. Vì vậy vào thời điểm lịch sử hiện nay,
chúng ta phải chủ trương tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các cá nhân ,
các gia đình cũng như các nhóm xã hội thực hiện các lợi ích trên đây là hết sức
đúng đắn, là phản ánh đúng những đòi hỏi khách quan của thực tiễn cuộc sống.
Thực ra, thông qua các chủ trương ấy, chúng ta nhằm vào các mục đích lớn lao
hơn- đó là đưa xã hội thoát khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển đời sống
kinh tế xã hội của đất nước.
1.2.Các
cơ cấu lợi ích kinh tế trong các thành phần kinh tế ở nước ta:
Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh
tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và đa dạng các hình
thức tổ chức sản xuất-kinh doanh.Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định: ở nứơc
ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế.Đó là:
+Kinh
tế tập thể: Có thể nói các hợp tác xã(HTX) được thành lập và tồn tại mấy chục
năm qua được hình thành trên cơ sở tập thể hoá các tư liệu sản xuất mang tính
phong trào và được nền kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp, nuôi dưỡng đến nay hầu
như bị tan rã hoặc đang đứng trước nguy cơ tan rã. Các hợp tác xã nông nghiệp và
thương nghiệp, dịch vụ hầu như đã biến dạng và biến mất hoàn toàn.
Riêng
trong nông nghiệp các HTX hay các tập đoàn sản xuất(TĐSX) diễn ra theo hai xu
hướng sau:
- Phần lớn các HTX va TĐSX
được thành lập trước đây đã bị tan rã và giải thể .
- Số còn lại tồn tại chủ
yếu mang tính chất hình thức làm dịch vụ phục vụ, thúc đẩy kinh tế hộ gia đình
phát triển.
Dĩ
nhiên, cùng với sự tan rã và giải thể hàng loạt của các HTX và các TĐSX trong cả
nông nghiệp, công nghiệp thương nghiệp và dịch vụ theo mô hình cũ là sự hình
thành những loại hình hợp tác kiểu mới đa dạng ra đời một cách khách quan do yêu
cầu của đời sống và sản xuất xã hội. Loịa hình hợp tác này được hình thành trên
cơ sở các thành viên xã viên tự nguyện tham gia và đóng góp cổ phần trên nguyên
tắc cùng có lợi , lời ăn, lỗ chịu. Trong công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ
nó mang tên Tổ hợp sản xuất, công ty… tuỳ theo tính chất và quy mô, còn trong
nông nghiệp nó được hình thành và hiện còn ở dạng quy mô hợp tác nhỏ.
Các quan hệ kinh tế của các HTX và TĐSX trước đây gắn liền với nhà nước, còn
các quan hệ kinh tế của các công ty , các hợp tác xã mới được hoạt động mấy năm
qua gắn liền với cơ chế thị trường.
HTX và TĐSX trước đây là một bộ phận của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, quy
định bởi nhà nước và vận động theo xu hướng chung đó. Còn kinh tế hợp tác hiện
nay là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động, người sản xuất
nhỏ, dưới các hình thức hết sức đa dạng , được Đảng và nhà nước ta coi là một bộ
phận quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cùng với kinh tế
nhà nước dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế .Chỉ thị ngày 24-5-1996 của
Ban bí thư TƯ Đảng về phát triển kinh tế hợp tác chỉ rõ: " Nhà nước tôn trọng
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của HTX, không can
thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX". Tuy nhiên, nhà nước khuyến
khích phát triển mọi hình thức kinh tế hợp tác , có các chính sách ưu đãi , hỗ
trợ HTX về đất đai, thuế tín dụng , đầu tư, xuất nhập khẩu, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ …Trong điều kiện vừa được nhận sự ưu đãi , hỗ trợ từ nhà nước , vừa được
hoàn toàn độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, kinh tế tập thể hiện nay vận
động theo xu hướng khác nhau , vừa bị quy định bởi cơ chế thị trường , vừa phụ
thuộc vào xu hướng chung của các thành viên tham gia hợp tác.
Đối với kinh tế tập thể, nhà nước với các chức năng của mình, nhất là chức năng
hành pháp và kinh tế , thông qua các luật doanh nghiệp, đầu tư…,các chính sách
thuế , chính sách bảo trợ sản xuất, các dịch vụ kỹ thuật ,cung ứng vật tư, tiêu
dùng sản phẩm và ngân hàng, tín dụng…, trong những chừng mực nhất định, những
phạm vi và quy mô nhất định có thể định hướng điều chỉnh sự vận động và phát
triển của kinh tế tập thể theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Dĩ nhiên, đó là sự
điều tiết ở tầm vĩ mô. Chắc chắn rằng trong tương lai thành phần kinh tế tập thể
sẽ cùng với thành phần kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa mà Đảng ta chủ trương.
.+Kinh
tế tư bản nhà nước : Đó là thành phần kinh tế mới xuất hiện từ khi ta thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước. Có thể kể 2 loại hình chủ yếu của kinh tế hỗn hợp
giữa nhà nước và tư nhân này là: liên doanh và hợp doanh, giữa nhà nước và tư
bản nước ngoài; và liên doanh, hợp doanh, hỗn hợp , giữa nhà nước và doanh
nghiệp trong nước và tư bản nước ngoài.
Hiện nay , 70-75% các dự án liên doanh với các nhà tư bản nước ngoài đều có quy
mô trên dưới 7 triệu USD . Điều đó chứng tỏ các công ty nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam giai đoạn đầu này phần lớn mới chỉ là công ty nhỏ, vốn ít, tìm kiếm cơ
hội có thể mang lại lợi nhuận ngay và thu hồi vốn nhanh. Do vậy, chưa có các dự
án tầm cỡ đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng và kinh tế mũi nhọn. Thu hút các
nhà đầu tư giai đoạn hiện nay phần nhiều là điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng,
dịch vụ, du lịch, khách sạn và ngân hàng.
Trong những năm vừa qua, các nhà đầu tư vào Việt Nam gặp không ít khó khăn
nhất là thủ tục hành chính môi trường đầu tư…Vì vậy, muốn thu hút các dự án lớn
cần trước hết làm trong sạch môi trường đầu tư cũng như ban hành và thực thi
pháp luật nghiêm minh, đồng bộ và bình đẳng .
Dù nhà nước là đồng tác giả nhưng thành phần kinh tế tư bản nhà nước vẫn tuân
theo những quy luật thép của kinh tế thị trường. ở đây xu hướng phát triển của
các doanh nghiệp liên doanh này sẽ phụ thuộc vào chủ thể bỏ vốn đâù tư nhiều hơn
trên 50% . Nếu phía nhà nước đầu tư phía đối tác bên ngoài góp vốn lớn hơn thì
dù nhà nước có tham gia điều tiết ở cả tầm vĩ mô và vi mô như thế nào chăng nữa
thì xu hướng vận động tự nhiên của nó cũng vẫn nghiêng về con đường phát triển
tư bản chủ nghĩa.
Ngoài
ra còn có:
+Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
+Kinh
tế nhà nước.
+Kinh
tế cá thể,tiểu chủ.
+Kinh
tế tư bản tư nhân
Như vậy,trên một góc độ nào đấy(dựa vào các mối quan hệ kinh tế trực tiếp chẳng
hạn) ta có thể thấy được 6 cơ cấu các lợi ích kinh tế,đó là:
_Thành
phần kinh tế nhà nước có lợi ích của Nhà nước(xã hội);lợi ích tập thể;lợi ích cá
nhân người lao động.
_Thành
phần kinh t ế tập thể có lợi ích tập thể; lợi ích xã hội;lợi ích cá nhân.
_Thành
phần kinh tế tư bản nhà nước có lợi ích của doanh nghiêp;lợi ích của xã hội;lợi
ích của cá nhân người lao động.
_Thành
phần kinh tế cá thể,tiểu chủ có lợi ích cá nhân,lợi ích xã hội.
Thành
phần kinh tế tư bản tư nhân có:lợi ích chủ doanh nghiệp;lợi ích cá nhân người
lao động;lợi ích xã hội.
_Thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài;lợi
ích của nước chủ nhà; lợi ích của người lao động trong các doanh nghiêp liên
doanh.
Trong
các cơ cấu lợi ích kinht ế ấy,thì lợi ích kinh tế nhà nước(xã hội)giữ vai
trò"hàng đầu"và là cơ sở để thực hiện các lợi ích khác,còn lợi ích kinh tế của
người lao động là quan trọng,nó thể hiện như là động lực trực tiếp thúc đẩy
người lao động.
Trong nền kinh tế thị trường,mỗi cá nhân,doanh nghiệp. Chỉ hành động khi họ
thấy đựơc lợi ích kinh tế của mình mà không cần thuyết phục hoặc cưỡng
bức.Song,vì có nhiều lợi ích kinh tế khác nhau và vì lợi ích riêng của mỗi cá
nhân,vì lợi ích cục bộ,trước mắt có thể làm tổn hai đến lợi ích chung của cộng
đồng(tập thể và xã hội).Do đó,nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là
người tổ chức cán bộ quản lý và điều hành nền kinh tế vĩ mô phải giải quyết tốt
mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế và hướng chúng vào một quỹ đạo chung,tạo
động lực lâu bền,mạnh mẽ và vững chắc cho sự phát triển.
Giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là một vấn đề khá phức tạp và
giữ vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu nguồn gốc,động lực phát triển xã
hội nói chung,phát triển kinh tế thị trường nói riêng.Theo Ph.Angghen,"ở đâu
không có lợi ích chung,ở đó không có sự thống nhất về mục đích".Quá trình giải
quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là tạo ra các điều kiện trong đó việc
thực hiện các lợi ích sao cho cùng một hướng và đảm bảo tính hàng đầu của lợi
ích xã hội,cái có lợi đối với xã hội thì phải có lợi ích đối với tập thể, cá
nhân và mỗi doanh nghiệp. Đó là nguyên tắc của sự kết hợp kinh tế trong nền kinh
tế thị trường.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế phải tính đến sự đan chéo
,chế ước, tác động qua lại giữa các lợi ích kinh tế, đồng thời phải tính toán,
một cách toàn diện ,đảm bảo lợi ích trước mắt ,lâu dài, lợi ích toàn bộ,bộ
phận.
Ở nứơc ta hiện nay,sự kết hợp các lợi ích kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy
mục tiêu:dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ ,văn minh.Hướng các lợi
ích vào quỹ đạo chung và sự kết hợp chúng nhằm tạo ra động lực cho sự phát triển
bằng cách:
_
Với chức năng tổ chức kinh tế,nhà nước ta động viên mọi người,mọi lực
lượng,mọi thành phần kinh tế,thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế
2001-2010.
_
Xác định về lượng của mỗi loại lợi ích kinh tế và quan hệ tỷ lệ về mặt lượng
giữa các loại lợi ích kinh tế (đây là vấn đề phức tạp) có thể và cần thực hiện
bằng các hình thức kinh tế thể hiện ở một số chính sách kinh tế của nhà
nước:tiền lương,chính sách giá cả,thị trường,tín dụng,thuế,phân phối lợi
nhuận,….
1.3.Lợi
ích kinh tế và vấn đề phát triển cộng đồng trong giai đoạn hiện nay
Sự
say mê làm giàu hiện nay của xã hội ta thực chất là sự say mê các lợi ích kinh
tế- lợi ích vật chất. Thế nhưng đời sống con người không phải chỉ có kinh tế,
vật chất. Đời sống của một xã hội cũng không phải chỉ có vật chất.
Đành
rành , vào những thời điểm nhất định của tiến trình phát triển của xã hội, có
thể phương diện này hay phương diện kia của đời sống xã hội được ưu tiên ,được
tập trung nhiều hơn. Thế nhưng, điều ấy không có nghĩa là hạ thấp hay bỏ qua các
mặt các phương diện khác. Sự tồn tại và phát triển của đời sống, xã hội là một
quá trình liên tục .Do đó, sự gián đoạn hay gãy khúc của mặt này hay mặt kia của
đời sống xã hội bao giờ cũng gây ra những tổn thương, những biến động, thậm chí
tạo ra những lực lượng phá vỡ hoặc đẩy lùi quá trình phát triển của toàn thể
cộng đồng.
Chính vì thế, trong thời gian vừa qua,do bị cuôn hút vào thực hiện các nhu cầu
tồn tại tối thiểu- nhu cầu vật chất- mà ta ít có điều kiện quan tâm nhiều đến
các phương diện, các khía cạnh khác của cuộc sống xã hôi. Điều đó trong chừng
mực nhất định đã dẫn đến việc làm nảy sinh một số vấn đề về văn hoá xã hội khác
khá bức xúc.
Vì vậy, trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, để phát triển cộng đồng một cách
toàn diện và bền vững cần sớm tạo lập một cơ chế kết hợp hài hoà một số quan hệ
sau:
1.3.1.
Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá- xã hội
Đây
là một quan hệ cơ bản , bao trùm và chi phối hầu như toàn bộ đời sống xã hội.
Thế nhưng nó không hề trừu tượng mà hết sức cụ thể trong cộng đồng. Sự chuyển
đổi cơ cấu kinh tế và các quan hệ kinh tế thời gian qua cũng gây nên sự thay đổi
hết sức căn bản các vấn đề văn hoá- xã hội .Có thể nói ,sự chuyển đổi trong lĩnh
vực văn hoá- xã hội chủ yếu mang tính tự phát và có rất nhiều biêủ hiện lúng
túng.
Những hoạt động văn hoá-xã hội cộng đồng này trước đây vừa được nhà nước bao cấp
vừa được các hợp tác xã hay các cấp chính quyền địa phương hỗ trợ về kinh phí.
HIện nay, các nguồn kinh phí bao cấp chính không còn nữa. Do vậy, các hoạt động
mang tính cộng đồng này hầu như bị bỏ rơi. ở nhiều nơi, nhiều lúc các hoạt động
văn hoá tinh thần của cộng đồng cở sở hoặc bị lôi cuốn theo hướng này , hướng
khác, hoặc bị xuống cấp, tan rã, mất phương hướng, rối loạn.
Như vậy, trong điều kiện chuyển đổi cơ chế hiện nay, lợi ích kinh tế của cá nhân
và xã hội ngày càng được thực hiện, nhưng các lợi ích văn hoá-xã hội hướng vào
sự phát triển cộng đồng và nhân tính hầu như không được quan tâm một cách đúng
mức .Nghĩa là, hiện đang có sự vận động ngược hướng nhau giữa kinh tế và văn
hoá- tinh thần trong cộng đồng xã hội, vì thế một số vấn đề văn hoá- xã hội hầu
như chưa được quan tâm một cách đúng mức. Nhiều cộng đồng cơ sở càng hoà nhập
vào đời sống kinh tế thị trường thì càng trở nên phức tạp hơn.
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để tạo lập được một cơ chế linh hoạt:có sự phát
triển mạnh mẽ về kinh tế đồng thời thúc đẩy sự phát triển phong phú và đa dạng
các lĩnh vực văn hoá- xã hội. Nghĩa là, tạo lập được một sự phát triển đồng hành
tổng thể của một cộng đồng xã hội.
Đó là một cơ chế được thiết lập và chế định thống nhất từ trung ương đến địa
phương, được quản lý, điều tiết và tài trợ , tài chính theo các cấp chính quyền
của nhà nước. Dĩ nhiên, đây là một cơ chế mở để có thể thu hút và huy động được
các nguồn tài chính và tài trợ trong nhân dân. Chỉ có như thế mới tạo cho xã hội
phát triển một cách thực sự bền vững.
1.3.
2. Lợi ích kinh tế và các vấn đề chính sách xã hội
Trong
giai đoạn kinh tế thị trường mở cửa hiện nay, sự đề cao lợi ích kinh tế của các
chủ thể hoạt động bị quy định bởi tính tất yếu khách quan chứ không phải do ý
muốn chủ quan của bất cứ cá nhân nào. Đó chẳng qua chỉ là sự tuân thủ các quy
luật khách quan đang chi phối đời sống kinh tế xã hội đất nước
Thế
nhưng các quy luật khách quan khi xuất hiện và hoạt động thường bị chi phối bởi
các ý muốn chủ quan của các chủ thể mà thường mang tính"tự nó" .Do vậy, nó không
tính đến khía cạnh tình cảm và nhân văn của con người, cũng không tính đến các
duyên nợ quá khứ của các chủ thể hoạt động.Vì lẽ đó, trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế, nhiều vấn đề thuộc về
chính sách xã hội đang được đặt ra hết sức cấp bách.
Đó là do , xã hội ta vừa bước ra khỏi những cuộc chiến tranh kéo dài và khốc
liệt.Xương máu của hàng triệu người đã đổ, tài sản của hàng triệu người đã được
huy động ,góp vào cuộc đấu tranh vào nền độc lập tự do của dân tộc. Rõ ràng, khi
bước vào xây dựng lại đất nước trong điều kiện hoà bình, trong quá trình tiến
hành sự nghiệp đổi mới, ta không thể quay lưng lại với thế hệ qúa khứ của cha
anh, không thể để mặc cho những quy luật kinh tế thị trường lạnh lùng chi phối
và dẫn dắt xã hội ta.
Vấn đề là, trên cơ sở những thành quả hết sức đáng khích lệ do nền kinh tế thị
trường mang lại, ta cần sớm tập trung và giải quyết những vấn đề thuộc về chính
sách xã hội,có thể khẳng định đây là những vấn đề luôn đặt ra trong mọi xã hội,
nhưng riêng với nước ta có những nét rất đặc biệt
Thứ nhất,xã hội ta vừa trải qua hai cuộc kháng chiến, sự mất mát với một bộ phận
dân cư là vô cùng lớn, không gì bù đắp nổi, chúng ta phải có những chính sách
hậu chiến như thế nào để tương ứng với công trạng và những hy sinh của họ. Đây
là những khía cạnh hết sức nhạy cảm và nó càng nhạy cảm hơn, do sự phân hoá giàu
nghèo ngày càng diễn ra mạnh mẽ trong xã hội ngày nay. Giải quyết đúng đắn vấn
đề này là những hành động thực tiễn khẳng định lí tưởng cao đẹp của Đảng và nhà
nước ta.
Thứ hai, xã hội ta mấy chục năm qua đã thực hiện cơ chế quản lý mang tính bao
cấp .Những hạn chế của nó thì không ai có thể bào chữa được nhưng những ưu điểm
của nó thì chắc chắn không ai có thể phủ định được. Trong những ưu điểm thể
hiện tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa của chúng ta có những vấn đề thuộc chính
sách xã hội, trong đó đặc biệt là khía cạnh phúc lợi xã hội và đảm bảo xã
hội.
Hiện nay chế độ bao cấp bình quân không còn nữa, sự phân hoá giàu nghèo trong
xã hội ngày càng mạnh mẽ thì khả năng và cơ hội của người dân thì ngày càng cách
biệt nhau. Sự bất bình đẳng về kinh tế sẽ dẫn đến bất bình đẳng về xã hội. Thói
quen, nếp nghĩ và nối sống của thời bao cấp khi va đập vào cơ chế thị trường đã
tạo nên những "cú sốc" khá nặng nề về tâm lý đối với không ít người.
Vậy làm thế nào để thực hiện được phúc lợi xã hội chung nhằm tạo ra các cơ hội
bình đẳng cho mọi người dân , nghĩa là tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi
người để họ có chung một nền tảng, một điểm xuất phát, cùng hoà nhập, cùng phát
triển? Làm thế nào để hạn chế và ngăn chặn xu hướng phát triển chủ nghĩa cá nhân
cực đoan và phát huy được tinh thần tập thể , cộng đồng sẵn có trong truyền
thống văn hoá , dân tộc?
Cố nhiên, nếu kinh tế không phat triển, nếu dân không giàu ,nước không mạnh thì
chắc chắn thì không thể thực hiện được những vấn đề chính sách xã hội ở một mức
độ nào đó. Thế nhưng, sự tăng trưởng kinh của đất nước trong giai đoạn vừa qua
đã bước đầu tạo ra một cơ sở nhất định để thúc đẩy việc thực hiện các vấn đề
thuộc về chính sách xã hội như phúc lợi xã hội ,bảo hiểm xã hội và bảo trợ xã
hội.
Mặc dù xã hội nào cũng có những chính sách xã hội, nhưng do trong điều kiện
đặc biệt của xã hội ta mà trong tình hình hiện nay chúng ta cần hết sức quan tâm
giải quyết . Đây là những vấn đề lớn của đời sống kinh tế xã hội và chính nó cho
thấy tính ưu việt của một chế độ xã hội. Vì vậy , việc giải quyết vấn đề này một
cách đúng đắn kịp thời sẽ đóng góp , khẳng định sự định hướng xã hội chủ nghĩa
trong quá trình phát triển của xã hội ta giai đoạn hiện nay.
1.3.3.
Lợi ích kinh tế và vấn đề môi trường sống:
Trong nhiều năm qua chúng ta rất ít quan tâm đến vấn đề môi trường sống- cả
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Vì vấn đề này trong suốt gần nửa thế
kỷ qua có thể nói chưa khi nào đặt ra một cách gay gắt, đòi hỏi xã hội phải đầu
tư giải quyết như hiện nay.
Thực vậy,có thể nói việc quản lý và điều khiển cộng đồng theo mô hình hành chính
thống nhất trước đây đã tạo ra một môi trường xã hội thực sự ổn định và thuần
nhất. Những chuẩn mực xã hội, những giá trị đạo đức, những đặc trưng cơ bản của
con người mới được đề cao tạo nên những khuôn đúc sẵn có về thế hệ con người
.Khi ấy, nếu có một người nào đó hay những biểu hiện nào đó khác với khuôn mẫu
thì sẽ bị cộng đồng, toàn xã hội nên án,ngăn chặn và cô lập.
Bây giờ nhìn lại, ta có thể phê phán những hạn chế của cách quản lý và điều
khiển xã hội theo mô hình ấy.Nhưng rõ ràng, môi trường xã hội ngày đó thực sự
trong sạch và lành mạnh. Những tệ nạn xã hội như tình trạng phạm pháp, mại dâm,
nghiện hút, cờ bạc, buôn lậu…gần như bị loại bỏ ở đời sống xã hội trong nhiều
chục năm.
Đối với tự nhiên cũng thế. Có lẽ là do trước đây dân cư còn thưa thớt nhu cầu
con người còn đơn giản và được quản lý tập trung thống nhất, hơn thế, chúng ta
lại được điều kiện tự nhiên ưu đãi , đồng thời cả xã hội ta còn đang dồn sức vào
sự nghiệp thống nhất đất nứơc ở một chừng mực nhất định ,có thể nói trong hàng
chục năm chúng ta không phải bận tâm đến nạn phá rừng , ô nhiễm môi trường hay
chất thải công nghiệp….
Nhưng trong khoảng hơn mười năm trở lại đây nhất là mấy năm qua, vấn đề môi
trường sinh sống của xã hội ta nổi lên hết sức gay gắt .
a.Môi trường xã hội:
Thực
hiện kinh tế thị trường , mở cửa và dân chủ hoá đời sống xã hội đã làm thay đổi
căn bản diện mạo của xã hội ta . Nét đặc biệt dễ nhận thấy là cùng với sự tăng
trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của con người là sự thay đổi các chuẩn mực xã
hội và lối sống. Đáng lo ngại là sự xuất hiện tràn lan những tệ nạn xã hội có
nguy cơ không kiểm soát nổi. Đó là những băng nhóm tội phạm có tổ chức và vũ khí
đe doạ tài sản , tính mạng của người dân; đó là nạn mại dâm và ma tuý phát triển
tràn lan tàn phá những tế bào cuối cùng của xã hội và thách thức giống nòi trước
nạn dịch thế kỷ; đó là nạn buôn lậu ,lừa đảo và tham nhũng…những tệ nạn xã hội
này dường như đã gặp được môi trường thuận lợi để sinh sôi nảy nở.
Trong
nhiều nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội này xét đến cùng thì nguyên nhân kinh
tế đóng vai trò cơ bản . Vì những lợi ích kinh tế của cá nhân mình mà những đối
tượng này bất chấp tất cả mà không trừ một thủ đoạn nào kể cả giết người. Sự
phát triển cực đoan của lối sống cá nhân, lối sống tiêu dùng , sự say mê đời
sống vật chất một cách bệnh hoạn đã làm cho không ít người mất nhân tính. Đó
thực sự là một nguy cơ đe doạ sự phát triển lành mạnh và ổn định xã hội trong
điều kiện hiện nay.
b.
Môi trường tự nhiên:
Không phải chỉ có vấn đề môi trường xã hội đang đứng trước nguy cơ và thách
thức lan giải mà môi trường tự nhiên cũng đang đặt ra những vấn đề vô cùng
nghiêm trọng. Cùng với sự tàn phá môi trường tự nhiên, sự cân bằng sinh thái
mang tính tổng thể quốc gia, quá trình huỷ hoại quá trình sinh thái cũng đang
phổ biến ở tầm vi mô. Chính việc sử dụng một cách vô tội vạ, kém hiểu biết phân
hoá học và thuốc trừ sâu với nồng độ cao mà môi trường sống nông thôn bị ô nhiễm
nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của mọi người.
Vấn đề ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng đối với các đô thị lớn của
chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Hầu như các thành phố đều quá tải , mật độ
dân cư quá lớn mà các hạ tầng cơ sở lại thấp kém. Quá trình đô thị hoá diễn ra
nhanh chóng không tuân thủ quy hoạch tổng thể đã phá vỡ môi trường sinh thái và
môi trường thẩm mỹ. Các chất thải đô thị và chất thải công nghiệp không được sử
lý đã đặc biệt làm ô nhiễm không khí và nguồn nước sinh hoạt…Tất cả những vấn đề
gay gắt này đang thách thức sự phát triển các đô thị chúng ta .
Như thế , trong giai đoạn hiện nay những vấn đề môi trường sinh sống của con
người- cả tự nhiên và xã hội- đang đặt ra hết sức gay gắt đối với sự phát triển
của xã hội ta. Kinh tế sẽ không thể tăng trưởng với tốc độ cao, xã hội sẽ không
phát triển nếu các tệ nạn xã hội làm cho các đời sống xã hội trở nên rối loạn ,
bất ổn , không kiểm soát nổi, nếu môi trường tự nhiên bị ô nhiễm và sự cân bằng
sinh thái ở tầm vi mô và vĩ mô bị phá vỡ.
Vấn đề môi trường sinh sống có tác động tới sinh mệnh của từng con người cụ
thể, tưng gia đình cụ thể .Thế nhưng để giải quyết được vấn đề này đòi hỏi vấn
đề phả được chú ý ở tầng vĩ mô. Bởi lẽ, mỗi con người chỉ quan tâm đến lợi ích
thiết thân của mình. Trong giai đoạn hiện nay, do thúc ép của đời sống thường
nhật mà họ chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất trước mắt của bản
thân và gia đình. ở đây không thể quy kết đó là sự ích kỷ hay thiên tính của con
người mà nên xem là một sự quy luật, một tất yếu kinh tế của cả giai đoạn lịch
sử hiện tại buộc các cá nhân phải suy nghĩ và hành động như vậy.
Rõ ràng, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề môi trường sống gắn bó hết sức chặt
chẽ với khía cạnh lợi ích kinh tế. Trong khi đó, lợi ích kinh tế đang là mối
quan tâm hàng đầu của từng cá nhân riêng lẻ cũng như của cả xã hội nước ta . Bài
toán đặt ra là, làm thế nào để vừa đạt được những lợi ích kinh tế , lại vừa bảo
đảm được môi trường sinh sống trong sạch và lành mạnh .
Hẳn là bài toán trước hết phải được giải quyết ở tầm vĩ mô. Và , dĩ nhiên, không
phải chỉ quy giản ở vấn đề lợi ích kinh tế của cá nhân và các nhóm người , mà
cần đặt nó trong các quan hệ rộng lớn hơn. Đó là không chỉ dừng lại ở tầm
chiến lược phát triển kinh tế chiến lược xã hội mà hơn thế cần phải có những cơ
chế thực thi và kiểm soát thực hiện cụ thể các chiến lược đó như thế nào. Dĩ
nhiên, cơ chế đó cần thể hiện một cách trung thành , nhất quán tính thống nhất
và đồng bộ của chiến lược, sao cho sự triển khai chiến lược và đường lối tạo lập
được sự phát triển hài hoà giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, giữa lợi
ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích trứơc mắt va lợi ích lâu dài.
Tóm lại, trong quá trình tăng tốc sự phát triển hiện nay một vấn đề mang tính
nguyên tắc là phải quản lý một cách sát sao và không ngừng điều tiết để tạo lập
được các mối quan hệ thống nhất và hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa con
người và tự nhiên.
Có
tạo lập được sự hài hoà và thống nhất hai mối quan hệ nêu trên , chúng ta mới
thực sự đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển toàn diện và bền vững. Có như thế
chúng ta mới từng bước thực hiện được lý tưởng tốt đẹp của Đảng và nhân dân ta,
đó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/loi-ich-kinh-te-va-cac-hinh-thuc-phan-phoi-thu-nhap-o-viet-nam-hien-nay.html
CHƯƠNG
2
Các
hình thức phân phối thu nhập ở
Việt
Nam
Lý
luận về phân phối có vị trí quan trọng trong kinh tế chính trị.Nó là vấn đề rộng
lớn ,liên quan đến các hoạt động kinh tế,văn hoá,xã hội…của nhà nước và nhân dân
lao động.Phần này không trình bày toàn bộ vấn đề chi phối mà chỉ bàn về phân
phối thu nhập quốc dân ,hình thành thu nhập của các tầng lớp dân cư.Phân phối
thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề vô cùng quan
trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển
,ổn định tình hình kinh tế-xã hội ,nâng cao đời sống nhân dân,thực hiện mục tiêu
dân giàu ,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ ,văn minh.
2.1.BẢN
CHẤT VÀ VỊ TRÍ CỦA PHÂN PHỐI:
2.1.1.Phân
phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội
Quá
trình táI sản xuất xã hội,theo nghĩa rộng,gồm 4 khâu:
+ Sản xuất
+Phân phối
+Trao đổi
+Tiêu dùng
Các
khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,trong đó khâu sản xuất là khâu cơ bản đóng
vai trò quyết định; các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất, nhưng chúng có quan hệ
trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng tới nhau.Trong quá trình tái sản
xuất xã hội, phân phối và trao đổi là các khâu trung gian nối sản xuất và tiêu
dùng, vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất,vừa phục vụ tiêu dùng.
Phân
phối bao gồm:
Phân phối cho tiêu dùng sản xuất (sự phân phối cho tư liệu sản xuất, sức lao
động của xã hội vào các ngành sản xuất) là tiền đề ,đIều kiện và là một yếu tố
sản xuất , nó quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản xuất,phân
phối thu nhập quốc dân hình thành của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy là sản
vật của sản xuất, song sự phân phối có ảnh hưởng không nhỏ đối với sản xuất: có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất . Ph.Angghen viết:" Phân
phối không phải chỉ đơn thuần là kết quả thụ động của sản xuất và trao đổi: nó
cũng có tác động trở lại sản xuất và trao đổi." Nó cũng có liên quan mật thiết
với việc ổn định tình hình kinh tế- xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Như
vậy,phân phối là phân phối tổng sản phẩm xã hội và phân phối thu nhập quốc dân
và nó được thực hiện dươí các hình thái:
+ Phân phối hiện vật
+ Phân phối dưới hình thái giá trị
+Phân phối qua quan hệ tài chính
+ Phân phối qua quan hệ tín dụng
………….
2.1.
2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất:
C.Mác
đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản
xuất :"quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản xuất
ấy,rằng chúng cấu thành mặt sau của quan hệ sản xuất ấy". Xét về quan hệ giữa
người với người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định.Vì vậy, mỗi phương
thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Quan hệ
sản xuất như thế nào thì quan hệ phân phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân
phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho
nhau.Sự biến đổi lịch sử của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự
biến đổi của quan hệ phân phối.Quan hệ phân phối có tác dụng trở lại đối với
quan hệ sở hữu và do đó đối với sản xuất: có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở
hữu, hoặc cũng có thể làm biến dạng tính chất của quan hệ sở hữu. Các quan hệ
phân phối vừa có tính đồng nhất ,vừa có tính lịch sử . Tính đồng nhất thể hiện
ở chỗ,trong bất cứ xã hội nào,sản phẩm lao động cũng được phân chia thành:
+ Một bộ phận cho tiêu dùng sản xuất
+ Một bộ phận để dự trữ
+ Một bộ phận cho tiêu dùng chung của xã hội
+ Một bộ phận cho tiêu dùng của cá nhân
Tính
lịch sử của quan hệ phân phối là mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng phù hợp
với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội đó,nghĩa là quan hệ phân phối là
một mặt của quan hệ sản xuất và cũng như quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối có
tính chất lịch sử. C.Mác viết"Quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của
một quan hệ sản xuất lịch sử nhất định." Do đó,mỗi hình thái phân phối đều biến
đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với các hình thái
phân phối ấy.Chỉ thay đổi được quan hệ phân phối khi đã cách mạng hoá được quan
hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy.Phân phối có quan hệ rất lớn đối với sản
xuất nền nhà nước cách mạng cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng
chế độ mới,để phát triển kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa
2.2.Các
hình thái phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.2.1
Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Xuất
phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và từ đặc đIểm kinh tế_ xã
hội nước ta,trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều
hình thức phân phối thu nhập.Đó là vì:
Thứ nhất,nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần,có nhiều hình
thức sở hữu khác nhau.
Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thức kinh doanh khác
nhau.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
nền kinh tế này, có nhiều chủ thể sản xuất ,kinh doanh thuộc nhiều thành phần
kinh tế tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức tổ chức sản xuất- kinh
doanh khác nhau.Ngay trong mỗi thời kỳ, kể cả thành phần kinh tế nhà nước cũgn
có các phương thức kinh doanh khác nhau, do đó, kết quả và thu nhập là khác
nhau.
Hơn nữa,trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các chủ thể sản xuất, kinh
doanh tham gia vào nền kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu của cải, tiền vốn,
trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường, thậm chí khác nhau cả may
mắn… Do đó, khác nhau về thu nhập.
Vì vậy , không thể có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái lại có
nhiều hình thức khác nhau.
2.2.2.Các
hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định và Đại hội Đảng
lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định đIều đó:"Thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,đồng
thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất-
kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội ".
a.Phân phối theo lao động:
Phân
phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà nước) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà
phần góp vốn của các thành viên bằng nhau ( kinh tế hợp tác). Các thành phần
kinh tế này đều dựa trên chế độ khác nhau. Người lao động làm chủ những tư liệu
sản xuất ,nên tất yếu cũng làm chủ phân phối thu nhập.Vì vậy,phân phối phải vì
lợi ích của người lao động.
Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ
nghĩa cộng sản,tức là chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo
nhu cầu và cũng không thể phân phôí bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao
động.
Tất
yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành
phần kinh tế dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất là vì:
_
Lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối
theo nhu cầu.Vì phân phối do sản xuất quyết định, cho nên C.mác đã viết:" Quyền
không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá
của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định"
_
Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có sự cống
hiến khác nhau, do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội của mỗi
người để phân phối.
_Lao
động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm
sống, là nghĩa vụ và quyền lợi ,hơn nữa còn những tàn dư ý thức, tư tưởng của xã
hội cũ để lại như : coi khinh lao động ,ngại lao động chân tay, chây lười, thích
làm ít hưởng nhiều,so bì giữa cống hiến và hưởng thụ…
Trong những điều kiện đó , phải phân phối theo lao động để khuyến khích người
chăm, người giỏi, giáo dục kẻ lười, người xấu, gắn sự hưởng thụ của mỗi người
với sự cống hiến của họ. Đây cũng là hình thức nhằm khắc phục những tàn dư tư
tưởng của xã hội cũ, không chỉ trong thời kỳ quá độ mà cả khi chủ nghĩa xã hội
đã được xác lập, phân phối theo lao động vẫn là hình thức phân phối chủ yếu
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và
chất lượng lao động của từng người đã đóng góp cho xã hội. Theo quy luật này,
người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm
thì không hưởng; lao động có kỹ thuật cao, lao động ở những ngành nghề độc hại
trong những điều kiện khó khăn đều được hưởng phần thu nhập thích đáng.
Căn
cứ cụ thể để phân phối theo lao động là:
_Số
lượng lao động được đo bằng thời gian lao động hoặc số lượng của sản phẩm làm
ra.
_
Trình độ thành thạo lao động và chất lượng thành phẩm làm ra
_
Điều kiện và môi trường lao động:
+ Lao động nặng nhọc
+ Lao động trong hầm mỏ
+ Lao động ở những vùng có nhiều khó khăn,x a xôi hẻo lánh như miền núi ,hải
đảo ,…
_
Tính chất của lao động
_
Các ngành nghề được khuyến khích
Phân phối theo lao động được thực hiện qua những hình thức cụ thể như:
_
Tiền công trong các đơn vị sản xuất_ Kinh doanh
_
Tiền thưởng
_
Tiền phụ cấp
_
Tiền lương trong các cơ quan hành chính sự nghiệp
Phân phối theo lao động có tác dụng:
_
Thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm,thúc đẩy nâng cao năng suất
lao động, xây dựng tinh thần và thái độ lao động đúng đắn, khắc phục những tàn
dư tư tưởng cũ, củng cố kỷ luật lao động
_
Thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp,trình độ văn hoá, ổn định lao
động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao động xã hội
_
Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hoá của người lao động ,vừa đảm bảo
tái sản xuất, sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện của người lao động phát triển
toàn diện.
Phân phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với các hình thức phân
phối đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội của sự phân phối đó là
sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liêụ sản xuất.
Tuy
vây, theo C.Mác, phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong
khuôn khổ:" Pháp quyền tư sản", tức là sự bình đẳng trong xã hội sản xuất hàng
hoá theo nguyên tắc trao đổi hoàn toàn ngang giá. Sự bình đẳng ở đây được hiểu
theo nghĩa quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung
cấp; sự bình đẳng đó còn thiếu sót là" với một công việc ngang nhau và do đó,
với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế,
người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia"
Phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn chế không thể
tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ khi nào cùng
với sự phát triển toàn diện của cá nhân , năng suất của họ càng tăng lên và tất
cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào thì khi đó người ta mới có thể
vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể
thực hiện phân phối theo nhu cầu . Chỉ khi đó mới có sự bình đẳng thực sự.
b.
Các hình thức phân phối khác:
Ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở
hữu và các hình thức tổ chức sản xuất- kinh doanh. Do đó , ngoài hình thức phân
phối theo lao động, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại các hình thức phân phối thu
nhập khác.Đó là:
_
Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo vốn và
phân phối theo lao động.
_
Trong thành phần kinh tế cá thể ,tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào sở hữu tư
liệu sản xuất, vốn đầu tư sản xuất và tài năng sản xuất, kinh doanh của chính
những người lao động
_
Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước, việc phân phối ở đây dựa trên
cơ sở sở hữu vốn cổ phần, sở hữu sức lao động, sở hữu tư bản…
c.
Phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội:
Để nâng cao mức sống về vật chất và văn hoá của nhân dân đặc biệt là các tầng
lớp nhân dân lao động, sự phân phối thu nhập của mọi thành viên ,xã hội còn được
thực hiện thông qua quỹ phúc lợi, tập thể và xã hội. Sự phân phối này có ý nghĩa
hết sự quan trọng vì nó góp phần :
_
Phát huy tính tích cực lao động của mọi thành viên trong xã hội
_
Nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp,
đời sống khó khăn làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành
viên trong cộng đồng.
_
Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới
_
Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình
phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng, song quỹ đó chỉ có ý nghĩa tích
cực khi được quy định và sử dụng một cách hợp lý phù hợp với yêu cầu và điều
kiện khách quan.
Tính
hợp lý của quỹ phúc lợi tập thể và xã hội được biểu hiện như sau:
_Quỹ
phúc lợi tập thể, xã hội không thể mở rộng quá khả năng của nền kinh tế cho
phép.
_
Tốc độ tăng trưởng thu nhập trực tiếp của cá nhân trong cộng đồng phải tăng
nhanh hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể và xã hội.
_
Trong giới hạn đã xác định, cần sử dụng có hiệu qủa, tiết kiệm ,hợp lý các quỹ
phúc lợi tập thể và xã hội. Việc sử dụng phải nhằm mục đích thiết thực, tránh
lãng phí xa hoa, phô trương hình thức. Vì các quỹ này có quan hệ với lợi ích
thiết thân của mỗi thành viên tập thể cộng đồng, cho nên cần phát huy đầy đủ dân
chủ, trưng cầu ý kiến của quảng đại quần chúng, sao cho mỗi loại phúc lợi đều có
thích hợp với nhu cầu bức thiết của quần chúng, phát huy được tác dụng vốn có
của nó.
_
Quỹ phúc lợi xã hội là chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh thần xã
hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; đồng thời động viên mỗi người dân, các
doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng
tham gia đóng góp .
d.
Phân phối theo vốn và tài sản:
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế tồn tại nhiều thành
phần, tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một hình thức phân phối nhất định.
Nếu thành phần kinh tế quốc doanh tập thể phân phối theo lao động, thì các thành
phần kinh tế khác lại có những hình thức phân phối khác, rất đa dạng, rất khác
nhau. Tuy nhiên, điều đó không làm mất tính định hướng xã hội chủ nghĩa bởi
chúng ta đảm bảo nguyên tắc lấy phân phối theo lao động làm chính nhưng đồng
thời sử dụng các hình thức phân phối khác, miễn là nó phù hợp với tình trạng nền
kinh tế của đất nước và thực hiện nó có tác dụng tốt cho sự phát triển kinh tế
xã hội cũng như phù hợp với lợi ích người lao động; người lao động bằng lòng
chấp nhận nó.
Điều này thể hiện ở hình thức phân phối theo tài sản, vốn, những đóng góp
khác...
Đây là hình thức phân phối thích hợp với điều kiện của đất nước ta trong giai
đoạn quá độ. Vì do đặc điểm nước ta trong thời kỳ này là đi lên chủ nghĩa xã hội
từ một nền sản xuất nhỏ. Tình trạng thiếu vốn, phân tán vốn là phổ biến. Quá
trình sản xuất, tích tụ, tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn lại
nằm trong tay người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ...
Để sử dụng nguồn vốn này, chúng ta không thể sử dụng cách chính sách áp đặt như
trưng thu, đóng góp cổ phần một cách bình quân. Những biện pháp đó chỉ làm suy
yếu lực lượng sản xuất xã hội.
Do đó, từ sau nghị quyết
hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI), ở nước ta đã xuất hiện
các biện pháp huy động vốn dưới những hình thức như vay vốn, góp cổ phần không
hạn chế, trả mức lãi hợp lý... Cách làm như vậy đã không những góp phần tăng
lượng vốn vào quá trình chu chuyển mà khu vực kinh tế quốc doanh lại được sử
dụng nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Đồng thời, mặc dù vốn của tư
nhân nhưng sử dụng đã mang tính xã hội. Với quan điểm đổi mới này, chúng ta
chấp nhận việc phân phối kết quả của sản xuất kinh doanh dưới hình thức "lợi
tức" và "lợi nhuận", và pháp luật bảo vệ những thu nhập hợp pháp đó.
2.3.Từng
bước thực hiện công bằng xã hôi trong phân phối thu nhập
Chủ
nghĩa xã hội phát triển mới có điều kiện để thực hiện một bước cơ bản về công
bằng xã hội trong phân phối thu nhập.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đảng và nhà nớc ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, thì vẫn tồn tại bất bình đẳng về phân phối thu nhập . Sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tạo ra những tiền đề , những biện pháp để
từng bước thu hẹp và xoá bỏ sự bất bình đẳng đó, tiến tới một xã hội" không có
chế độ người bóc lột người, một xã hôi bình đẳng nghĩa là ai cũng phải lao động
và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, ai
không làm thì không hưởng"
Để
đạt mục tiêu này,từ thực tiễn nước ta cần phải thực hiện:
2.3.1.Phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
Bởi như Ph.Anghen , phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc vào số lượng
sản phẩm được phân phối
2.3.2
Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công ,tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân
và thu nhập bất hợp lý, bất chính
Để từng bước thực hiện phân phối công bằng hợp lý ,cần có chính sách phân
phối bảo đảm thu nhập của những người lao động có thể tái sản xuất sức lao
động.Gắn chặt tiền công , tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu qủa sẽ
đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề .Nghiêm trị những
kẻ có thu nhập bất chính, cần phải tiền tệ hoá tiền lương và thu nhập, xoá bỏ
những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối.
2..3.3.
Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về mức thu nhập
Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta một mặt phải thừa nhận sự chênh
lệch về mức thu nhập giữa các tập thể , cá nhân là khách quan; mặt khác, nhà
nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá đáng để không dẫn đến sự phân hoá
xã hội thành hai cực đối lập, bằng cách điều tiết thu nhập và các giải pháp quản
lý.
Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường nói
chung, ngay cả trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải điều tiết thu nhập nhằm
duy trì sự ổn định xã hội. ở nứơc ta việc điều tiết thu nhập càng quan trọng,
nhằm hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập để không dẫn đến sự phân hoá xã
hội thành hai cực đối lập.
Điều tiết thu nhập được thực hiện thông qua hình thức :
_Điều
tiết giảm thu nhập thông qua hình thức thuế thu nhập và hình thức tự nguyện đóng
góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi xã hội , từ thiện…
Trong
đó thuế thu nhập là hình thức quan trọng nhất chủ yếu nhất và điều tiết làm tăng
thu nhập được thực hiện thông qua ngân sách nhà nước, ngân sách của các tổ chức
chính trị- xã hội, các quỹ bảo hiểm qua giá, trợ cấp, phụ cấp các loại, tín dụng
tiêu dùng và có thể một phần hiện vật cho một số đối tượng nhất định , qua các
hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân. Những điều đó nhằm trợ giúp
thường xuyên cho những người có thu nhập thấp, trợ giúp những người thất nghiệp,
những người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro, những người thuộc diện chính sách
xã hội , bổ xung thu nhập mang tính chất bình quân trong các tổ chức, trong các
doanh nghiệp vao các dịp lễ tết…
2.3.4.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu,nứơc mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Dân có giàu thì nước mới có thể mạnh, nước mạnh mới có khả năng
thực hiện sự công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh. Vì vậy, phải phát huy nỗ
lực làm giàu cho mọi công dân. Nhà nước không những khuyến khích mọi người làm
giàu một cách hợp lý, hợp pháp mà còn tạo điều kiện, giúp đỡ bằng nhiều biện
pháp.
Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành
nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, Mọi công dân đều được tự do hành
nghề , thuê mứơn nhân công theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm. Phân bố
lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước .Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh
xuất khẩu lao động. Tạo điều kiện cho mọi người lao động tự tạo, tìm kiếm việc
làm.
Thực
hiện xoá đói giảm nghèo , đền ơn đáp nghĩa bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân
đạo, từ thiện. Để từng bứơc đạt tới sự tiến bộ và công bằng xã hội trong phân
phối thu nhập, xuấtphát từ điều kiện cụ thể, nhiệm vụ trước mắt là phải thực
hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo nhất là vùng căn cứ cách mạng, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
KẾT
LUẬN
Ngày
nay Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo con đường mà
Đảng và nhà nước đã lựa chọn là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong đó lấy kinh tế nhà nước làm trung tâm cho mục tiêu phát
triển. Chính vì tồn tại nhiều thành phần kinh tế nên lợi ích kinh tế của từng
thành phần là không giống nhau. Nhưng bản thân mỗi thành phần kinh tế lại luôn
muốn lợ ích cao nhất cho mình. Chính vì lễ đó bài nghiên cứu sẽ như một kim chỉ
nam giúp cho những nhà hoạch định kinh tế của đất nước nói chung và các nhà
doanh nghiệp nói riêng có thể tự tìm cho mình một hướng đi đúng đắn và phù
hợp.
Bài
nghiên cứu cũng nhấn mạnh cho người đọc hiểu được rằng: vấn đề cơ bản để đáp ứng
được lợi ích kinh tế là cao nhất đó chính là khi mục đích, lý tưởng và hành động
của các chủ thể kinh tế phảI nhất trí với nhau. Muốn vậy thì vấn đề trước mắt
đặt ra cho các doanh nghiệp là phải đáp ứng được công bằng mong muốn của các chủ
thể. Đó chính là phải quan tâm tới việc phân phối thu nhập phù hợp cho các đối
tượng lao động khác nhau. Sao cho họ cảm thấy thoả đáng nhờ đó thúc đẩy được
mong muốn và lòng say mê lao động, góp phần đạt lợi nhuận cao nhất cho doanh
nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế của đất nước nói chung.
Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành
phần kinh tế. Mạc dù quan hệ phân phối có sự đan xen giữa tính chất phân phối
của các thành phần kinh tế nhưng trong đó tính chất phân phối của các thành phần
kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Do nền kinh tế nhiều thành phần với
nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nên tất yếu tồn tại nhiều
quan hệ phân phối thu nhập. Ví như trong các doanh nghiệp nhà nước vốn và tài
sản đều là của chung do vậy không thể lấy vốn và tài sản làm thước đo mà buộc
phải lấy số lượng và chất lượng lao động làm cơ sở phân phối. Do đó hình thức
phân phối thu nhập theo lao động. Cùng tồn tại tương ứng với quan hệ sở hữu tập
thể, sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất thì. Với đặc trưng của nền kinh tế nhiều
thanh phần thì hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng kéo theo hình
thức phân phối thu nhập khác nữa cho Việt Nam. Đó là phân phối theo vốn, tài sản
và các nguồn lực khác. Đặc biệt là trong giai đoạn ngày nay khi bước đầu hình
thành các công ty cổ phần tại nước ta thì hình thức nay càng thể hiện rõ nét
thông qua lợi tức cổ phần mà các cổ đông nhận được tương ứng từ số vốn mà các cá
nhân trong hội đồng quản trị bỏ ra đẻ mua cổ phiếu. Không chỉ dừng lại ở việc
góp chung vồn kinh doanh mà từng bước đã hình thành rất nhiều các loại góp vốn
khác nhau như góp tư liệu sản xuất, đầu tư yếu tố sản xuất, máy móc, nhà xưởng
và các nguồn lực khác. Cùng với các hình thức phân phối thu nhập như đã nêu thì
ở Việt Nam ta còn tồn tại phân phối thông qua phúc lợi tập thể và xã hội. Mỗi
hình thức phân phối lại tỏ ra có một ưu thế nhất định, một khả năng riêng. Nhưng
tất cả đếu hướng tới mục đích công bằng xã hội, dân chủ văn minh. Vì thời gian
nghiên cứu cũng như kiến thức sinh viên năm đầu còn hạn chế. Nên bài viết không
tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự góp ý và nhận xét từ phía các thầy các cô
cũng như các bạn sinh viên để bài viết có thể hoàn chỉnh và có khả năng thực
tiễn cao. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy Cần đã giúp đỡ em trong việc
hoàn thành bài viết này.
A.PHẦN MỞ ĐẦU:………………………………………….2
B.NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: Lý luận cơ bản về lợi ích Kinh tế
1.1.Bản chất đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh
tế………………..3
1.1.1. Lợi ích kinh
tế……………………………………………3
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh
tế………………………………..4
1.2.Các cơ cấu kinh tế trong các thành phần kinh tế ở
nước ta….5
1.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề phát triển cộng đồng trong
giai đoạn phát triển hiện nay…………………………………………… ..11
1.3.1. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá
xã hội…12
1.3.2. Lợi ích kinh tế và các vấn đề chính sách xã
hội……….13
1.3.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề môi trường
sống…………….15
CHƯƠNG 2:
Các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam…
2.1.Bản chất và vai trò của phân phối…………………………….20
2.1.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái sản
xuất………..20
2.1.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản
xuất……………...21
2. 2. Các hình thái phân phối thu nhập ………………………….23
2.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều
hình thức phân phối………………………………………………………………23
2.2.2. Các hình thức phân phối thu nhập ……………………….24
a. Phân phối theo lao
động…………………………………..24
b. Các hình thức phân phối
khác nhau………………………27
c. Phân phối thông qua phúc
lợi tập thể ,phúc lợi xã hội……28
d. Phân phối theo vốn và tài
sản…………………………….29
2.3. Từng bước thực hiện công bằng trong phân phối thu
nhập…30
2.3.1. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất…………………..30
2.3.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền
lương, chống chủ nghĩa bình quân ,thu nhập bất hợp lý bất chính……………..31
2.3.3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch
quá đáng về thu nhập………………………………………………………31
2.3.4. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói
giảm nghèo…………………………………………………………….32
C.KẾT LUẬN…………………………………………………..34
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..35
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/loi-ich-kinh-te-va-cac-hinh-thuc-phan-phoi-thu-nhap-o-viet-nam-hien-nay.html
Chương 1
B.NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: Lý luận cơ bản về lợi ích Kinh tế
1.1.Bản chất đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế………………..3
1.1.1. Lợi ích kinh tế……………………………………………3
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế………………………………..4
1.2.Các cơ cấu kinh tế trong các thành phần kinh tế ở nước ta….5
1.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề phát triển cộng đồng trong giai đoạn phát triển hiện nay…………………………………………… ..11
1.3.1. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá xã hội…12
1.3.2. Lợi ích kinh tế và các vấn đề chính sách xã hội……….13
1.3.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề môi trường sống…………….15
CHƯƠNG 2:
Các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam…
2.1.Bản chất và vai trò của phân phối…………………………….20
2.1.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất………..20
2.1.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất……………...21
2. 2. Các hình thái phân phối thu nhập ………………………….23
2.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối………………………………………………………………23
2.2.2. Các hình thức phân phối thu nhập ……………………….24
a. Phân phối theo lao động…………………………………..24
b. Các hình thức phân phối khác nhau………………………27
c. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể ,phúc lợi xã hội……28
d. Phân phối theo vốn và tài sản…………………………….29
2.3. Từng bước thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập…30
2.3.1. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất…………………..30
2.3.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân ,thu nhập bất hợp lý bất chính……………..31
2.3.3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập………………………………………………………31
2.3.4. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo…………………………………………………………….32
C.KẾT LUẬN…………………………………………………..34
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..35
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/loi-ich-kinh-te-va-cac-hinh-thuc-phan-phoi-thu-nhap-o-viet-nam-hien-nay.html
1.Báo
Tiền Phong số 22(ngày
27/8/2001)
2.Báo
Tiền Phong số63(ngày 28/3/2002
)
3.Báo
Pháp Luật số 158(ngày
27/8/2001)
4.Hiến
Pháp 1980
5.Luật
Đất Đai
6.Giáo
Trình Kinh tế chính trị _NXB Chính Trị Quốc Gia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét