Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012

Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay


PHẦN MỞ ĐẦU


1.Lý do chọn đề tài:
          Đất nước ta đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước trải qua nhiều giai đoạn ,nhiều thời kì ,mỗi thời kì tồn tại những  hình thức tư hữu khác nhau .Và cho đến ngày nay, khi đất nước đang trên đà phát triển để trở thành con rồng của châu á, thì những quan hệ sản xuất đã dần được hoàn thiện. Nhưng để có những quan hệ sản xuất và nền kinh tế như ngày nay là do Đảng và Nhà nước ta đã kế thừa , phát huy những gì đã có mà chính tư tưởng của Mác đã làm kim chỉ nam dẫn đường cho những bước phát triển . Là những sinh viên kinh tế , những người sẽ góp phần xây dựng kinh tế trong tương lai,chúng ta thường quan tâm đến những vấn đề của kinh tế phát triển như cổ phần hoá doanh nghiệp,như kinh tế thị trường ... mà mấy ai quan tâm đến vấn đề thuế đất.
Mới chỉ nghe về đất thì ta tưởng chừng như đây là vấn đề của nông nghiệp nhưng thực tế hoàn toàn khác đây là một trong những vấn đề quan trọng trong dự án phát triển kinh tế sau này,thuê đất ở đâu để kinh doanh, tiền thuê đất như thế nào, hay khi kinh doanh nông nghiệp thì tiền thuê đất là bao nhiêu  , nghĩa vụ như thế nào ? chúng ta phải tìm hiểu. Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta phải phân tích những lí luận về địa tô của MAC , từ đó tìm hiểu xem Nhà nước ta đã vận dụng ra sao và đề ra những qui định , hạn mức gì ? Chính vì vậy mà em chọn đề tài :"Lý luận về địa tô của CácMac và sự vận dụng vào chính sách đất đai ở Việt Nam hiện nay"
2. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng , kết hợp phân tích , tổng hợp , so sánh để làm rõ những nội dung nghiên cứu của đề tài . Đề tài sử dụng có chọn lọc thành quả nghiên cứu của các tác giả khác về chính sách ruộng đất hiện nay.
  http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/ly-luan-ve-dia-to-cua-cacmac-va-su-van-dung-vao-chinh-sach-dat-dai-o-viet-nam-hien-nay.html


CHƯƠNG 1

Lí luận về địa tô của C.MARX


Nông nghiệp cũng là một lĩnh vực sản xuất của xã hội .Nhà tư bản nông nghiệp tiến hành kinh doanh nông nghiệp cũng chiếm đoạt một số giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp mà họ thuê mướn tạo ra.Tất nhiên họ không thể chiếm đoạt toàn bộ giá trị thặng dư đó mà phải cắt một phần để nộp tô cho địa chủ .Là nhà tư bản kinh doanh trước hết họ phải đảm bảo thu được lợi nhuận bình quân cho tư bản của họ bỏ ra.Và do đó để nộp tô cho địa chủ, họ còn phải bảo đảm thu được một số giá trị thặng dư vượt ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, một  lợi nhuận siêu ngạch,khoản lợi nhuận siêu ngạch này phải được bảo đảm thường xuyên và tương đối ổn định .Và bộ phận siêu ngạch này là do công nhân nông ngiệp tạo ra,nộp cho địa chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất .Có khi địa chủ không cho thuê ruộng đất mà tự mình  thuê công nhân để khai thác ruộng đất của mình.Trong trường hợp này địa chủ hưởng cả địa tô lẫn lợi nhuận.
     Để làm rõ được bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa hơn ,Mác đã so sánh giữa địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến .
1.1.SO SÁNH ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA VỚI ĐỊA TÔ PHONG KIẾN
 1.1.1.Sự giống nhau:
       Trước hết là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế đồng thời cả hai loại địa tô này đều là kết quả của sự bóc lột đối với những người lao động .
     1.1.2.Sự khác nhau:
            Hai loại địa tô này cũng khác nhau về mặt lượng và chất .
a.Về mặt lượng :
    Địa tô phong kiến gồm toàn bộ sản phẩm thặng dư do nông dân tạo ra,có khi còn lan sang cả sản phẩm cần thiết.
    Còn địa tô tư bản chủ nghĩa chỉ là một phần giá trị thặng dư ngoài lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất  .
b. Về mặt chất:
   - Địa tô phong kiến phản ánh mối quan hệ giữa hai giai cấp :
       +Địa chủ
       + Nông dân
     Trong đó giai cấp địa chủ trực tiếp bóc lột nông dân.
  -  Còn địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh mối quan hệ giữa 3 giai cấp
       +Giai cấp địa chủ
       +Giai cấp tư bản kinh doanh ruộng đất 
       + Công nhân nông nghiệp làm thuê
    Trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân thông qua tư bản hoạt động.
    Nhưng cuối cùng Mac cũng kết luận rằng :”Dù hình thái đặc thù của địa tô như thế nào thì tất cả những loại hình của nó đều có một điểm chung là sự chiếm hữu địa tô là hình thái kinh tế dưới đó quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện”
   Với kết luận này Mac đã khẳng định địa tô chính là phương tiện, là công cụ để bọn địa chủ bóc lột nông dân, ai có ruộng , ai có đất thì được quyền thu địa tô tức là có quyền bóc lột sức lao động của người làm thuê.
   Nếu nhìn vào bề ngoài ,ta không thể thấy được sự bóc lột của địa chủ đối với nông dân ,thực chất là giúp chúng gián tiếp bóc lột thông qua những nhà tư bản kinh doanh ruộng đất, thuê đất của địa chủ để cho nông dân làm. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao nhà tư bản lại có thể thu được phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân để trả cho chủ ruộng đất .Việc nghiên cứu địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối sẽ giải thích điều đó.
       1.2.CÁC HÌNH THỨC ĐỊA TÔ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA .
 1.2.1.Địa tô chênh lệch.
   Trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp cũng đều phải có lợi nhuận siêu ngạch .Nhưng trong công nghiệp lợi nhuận siêu ngạch chỉ là một hiện tượng tạm thời đối với nhà tư bản nào có được điều kiện sản xuất tốt hơn. Còn trong nông nghiệp thì ít nhiều có khác ,lợi nhuận siêu ngạch hình thành và tồn tại một cách tương đối lâu dài. Vì một mặt không thể tự tạo thêm ruộng đất tốt hơn ,gần nơi tiêu thụ nhưng có thể xây dựng được thêm nhiều nhà máy tối tân hơn trong công nghiệp , mặt khác diện tích ruộng đất có hạn và toàn bộ đất đai trồng trọt được đã bị tư nhân chiếm đoạt hết, và cũng có nghĩa là đã có độc quyền kinh doanh những thửa ruộng màu mỡ,có vị trí thuận lợi thì thu được lợi nhuận siêu ngạch một cách lâu dài.
   Nhưng có phải chỉ có ruộng đất tốt hay ít nhất là ruộng đất trên mức trung bình mới thu được lợi nhuận siêu ngạch không?
   Về mặt này nông nghiệp cũng khác công nghiệp . Trong công nghiệp giá trị hay giá cả sản xuất háng hoá là do những điều kiện sản xuất trung bình quyết định . Còn trong nông nhiệp ,giá cả hay giá trị sản xuất của nông phẩm lại do những điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định .Đó là vì nếu chỉ canh tác những ruộng đất tốt và trung bình,thì không đủ nông phẩm để thoả mãn nhu cầu của xã hội nên phải canh tác cả những ruộng đất xấu,và do đó cũng phải bảo đảm cho những nhà tư bản đấu tư trên những ruộng đất này có được lợi nhuận bình quân .
   Như vậy giá cả sản xuất của nông phẩm trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất xấu là giá cả sản xuất chung của xã hội nên nhà tư bản kinh doanh trên những ruộng đất trung mình cũng thu được lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân .Thưc chất thì địa tô chênh lệch cũng chính là lợi nhuận siêu ngạch , hay giá trị thặng dư siêu ngạch .
Vậy địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân ,thu được trên những điều kiện sản xuất thuận lợi hơn . Nó là số chênh lệch giữa giá cả chung của nông phẩm được quyết định bỏi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất trung bình và tốt. Nó sinh ra là do có độc quyền kinh doanh ruộng đất nhưng bên cạnh đó lại có độc quyền chiếm hữu ruộng đất ,nên cuối cùng nó vẫn lọt vào tay chủ ruộng đất.
   Cũng cần chú ý rằng không phải địa tô chênh lệch là sản phẩm do độ màu mỡ ruộng đất sinh ra .Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng dư trong nông nghiệp là do lao động thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Màu mỡ ruộng đất chỉ là điều kiện tự nhiên hay cơ sở tự nhiên làm cho lao động của nông dân có năng suất cao hơn , và là điều kiện không thể thiếu được để cho lợi nhuận siêu ngạch hình thành ,cũng như địa tô nói chung, không phải là do ruộng đất mà ra , nó là do lao động đã bỏ vào ruộng đất và do giá cả của sản phẩm lao động của nông phẩm ,chứ không phải do bản thân ruộng đất.
   Mac nói:” Lực lượng tự nhiên ấy không phải là nguồn gốc sinh ra lợi nhuận siêu ngạch , mà chỉ là cơ sở tự nhiên khiến có thể đặc biệt nâng cao năng suất lao động lên”.
  Sở dĩ Mac nói như vậy là vì nếu không có bàn tay con người ,không có sức lao động thì với điều kiện tự nhiên tốt cũng không thể tạo ra được nhiều lợi nhuận nhưng với sức lao động có hạn của con người ,nếu điều kiện tự nhiên tốt sẽ thúc đẩy sản xuất nâng cao lợi nhuận siêu ngạch.
   Chính lao động với năng suất cao đã làm cho nông phẩm thu được trên một diện tích canh tác tăng lên ,và giá cả sản xuất chung của một đơn vị nông phẩm hạ xuống so với giá cả sản xuất chung của nông phẩm,do đó mà có lợi nhuận siêu ngạch .Sự hình thành của lợi nhuận siêu ngạch mà từ đó của địa tô chênh lệch , được minh hoạ bằng ví dụ sau đây:
    Địa tô chênh lệch có hai loại địa tô:
+Địa tô chênh lệch I
+ Địa tô chênh lệch II.
a,Địa tô chênh lệch I:
   Địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên cơ sở ruộng đất màu mỡ . Ngoài ra, ruộng đất có vị trí thuận lợi như ở gần nơi tiêu thụ hay đường giao thông thuận tiện cũng đem lại địa tô chênh lệch I , bởi vì ở gần nơi tiêu thụ như thành phố ,khu công nghiệp hay đường giao thông vận tải thuận tiện,sẽ tiết kiệm được một phần lớn chi phí lưu thông khi bán cùng một giá;những người phải chi phí vận tải ít hơn đương nhiên được hưởng một khoản lợi nhuận siêu ngạch so với những người phải chi phí vận tải nhiều hơn,do đó mà có địa tô chênh lệch.
    Ví dụ:


Vị trí ruộng đất
Chi phí tư bản (usd)
Sản lượng (tạ)
Lợi nhuận bình quân (usd)
Chi phí vận chuyển (usd)
Tổng giá cả sản xuất cá biệt (usd)
Giá cả sản xuất cá biệt 1 tạ (usd)
Giá cả sản xuất chung
Địa tô chênh lệch I
Của 1 tạ
Của TSL (usd)
Gần thị trường
100
5
40
0
140
28
31
155
15
Xa thị trường
100
5
40
15
155
31
31
155
0

b, Địa tô chênh lệch II:
Là do thâm canh mà có . Muốn vậy phải đầu tư thêm tư liệu sản xuất và lao động trên cùng một khoảng ruộng đất ,phải cải tiến kĩ thuật , nâng cao chất lượng canh tác để tăng năng suất ruộng đất và năng suất lao động lên.
   Ví dụ:
Lần đầu tư
Tư bản đầu tư (usd)
Số lượng (tạ)
Giá cả sản xuất cá biệt (usd)
Giá cả sản xuất chung
địa tô chênh lệc II
Của 1 tạ(usd)
Của TSL (usd)
Lần thứ 1
100
4
25
25
100
0
Lần thứ 2
100
5
20
25
125
25

Chừng nào thời hạn thuê đất vẫn còn thì nhà tư bản bỏ túi số lợi nhuận siêu ngạch trên.Nhưng khi hết hạn hợp đồng thì chủ ruộng đất sẽ tìm cách nâng mức địa tô lên để giành lấy lợi nhuận siêu ngạch đó, biến nó thành địa tô chênh lệch .
  Vì lẽ đó ,chủ ruộng đất chỉ muốn cho thuê ruộng đất ngắn hạn còn nhà tư bản lại muốn thuê dài hạn.
   Cũng vì lẽ đó nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp không muốn bỏ ra số vốn lớn hơn để cải tiến kĩ thuật ,cải tạo đất đai ,vì làm như vậy phải mất nhiều thời gian mới thu hồi được vốn về . Và rốt cuộc chủ đất sẽ là kẻ hưởng hết lợi ích của những cải tiến đó . Và nhà tư bản thuê ruộng đất vì vậy chỉ nghĩ làm sao tận dụng hết màu mỡ của đất đai trong thời gian thuê ruộng đất. Mục đích thâm canh của họ là nhằm thu được thật nhiều lợi nhuận trong thời gian kí kết hợp đồng,nên họ ra sức bòn rút hết màu mỡ đất đai . Mac nói :”Mỗi bước tiến của công nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến không những trong  nghệ thuật bóc lột người lao động ,mà còn là bước tiến trong nghệ thuật làm cho đất đai ngày càng kiệt quệ; mỗi bước tiến trong nghệ thuật làm tăng màu mỡ cho đất đai trong một thời gian là một bước tiến trong việc tàn phá những nguồn màu mỡ lâu dài của đất đai.” Một ví dụ điển hình là ở Mỹ trước đây ,chế độ canh tác bất hợp lí đã làm cho 16 triệu ha ruộng đất vốn màu mỡ đã trở thành bạc màu hoàn toàn.
1.2.2. Địa tô tuyệt đối.
  Ngoài địa tô chênh lêch địa chủ còn thu được địa tô tuyệt đối trong khi cho thuê ruộng đất.
  Phần trên, khi nghiên cứu địa tô chênh lệch chúng ta đã giả định là người thuê đất xấu chỉ thu về chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân , và không tính đến việc phải nộp địa tô.Thực ra không phải như vậy, người thuê ruộng đất dù là đất tốt hay xấu đều phải nộp địa tô cho chủ đất. Địa tô mà các nhà tư bản thuê ruộng đất nhất thiết phải nộp _”tuyệt đối” phải nộp dù ruộng đất tốt ,xấu như thế nào , là địa tô tuyệt đối .Vậy các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất lấy đâu mà nộp?
  Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa , nông nghiệp lạc hậu hơn công nghiệp , cả về kinh tế lẫn kĩ thuật . Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp vì vậy thấp hơn trong công nghiệp . Cho nên nếu tỉ suất giá trị thặng dư tức là trình độ bóc lột ngang nhau từ một tư bản ngang nhau sẽ sinh ra trong công nghiệp nhiều giá trị thặng dư hơn trong nông nghiệp .
   Ví dụ : có hai tư bản nông nghiệp và tư bản công nghiệp ngang nhau,đều là 100 chẳng hạn; cấu tạo hữu cơ trong tư bản công nghiệp là 80c + 20v (4/1) của tư bản nông nghiệp là 60c + 40v (3/2) nếu tỉ suất giá trị thặng dư đều là 100% thì sản phẩm và giá trị thặng dư sản xuất ra sẽ là.
        Trong công nghiệp : 80c + 20v + 20m = 120
        Trong nông nghiệp : 60c + 40v + 40m = 140
   Giá trị thặng dư dôi  ra trong nông nghiệp so với công nghiệp là 20m.
   Nếu là trong công nghiệp thì số giá trị thặng dư này sẽ được đem chia chung cho các nhà công nghiệp trong quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận . Nhưng trong nông nghiệp điều đó không thể diễn ra được ,đó là chế độ độc quyền tư hữu ruộng đất không cho phép tư bản tự do di chuyển vào trong nông nghiệp , do đó ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình quân chung giữa nông nghiệp và công nghiệp. Và như vậy ,phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân  ( Nhờ cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp ,bóc lột được của công nhân nông nghiệp nhiều hơn) được giữ lại và dùng để nộp địa tô tuyệt đối cho địa chủ.
    Vậy địa tô chênh lệch tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, hình thành nên do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp mà bất cứ nhà tư bản thuê ruộng đất nào cũng phải nộp cho địa chủ .Nó là số chênh lệch giữa giá trị nông phẩm và giá cả thực tế hình thành nên do cạnh tranh trên thị trường .
   Địa tô tuyệt đối gắn liền với độc quyền tư hữu ruộng đất .Chính độc quyền tư hữu ruộng đất làm cho lợi nhuận siêu ngạch hình thành trong nông nghiệp không bị đem chia đi và làm cho lợi nhuận siêu ngạch đó phải chuyển hoá thành địa tô.
   Về địa tô tuyệt đối ,Mac nói :”...bản chất của địa tô tuyệt đối là :Những tư bản ngang nhau của chúng sinh sản những khối lượng giá trị thặng dư khác nhau “.
   Để minh hoạ cho những điều nói trên chúng ta có thể lấy ví dụ sau đây:
    Do độc quyền về ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối , cho nên nếu không có chế độ tư hữu về ruộng đất , không có giai cấp địa chủ , thì địa tô tuyệt đối sẽ bị xoá bỏ , giá cả nông phẩm sẽ giảm xuống có lợi cho xã hội .
   Tóm lại , nêú điều kiện sản xuất có lợi (điều kiện tự nhiên hoặc điều kiện kinh tế do thâm canh đưa lại ) là điều kiện hình thành địa tô chênh lệch và độc quyền kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân trực tiếp để tạo ra địa tô chênh lệch ấy , thì điều kiện để hình thành địa tô tuyệt đối là cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp  thấp hơn trong công nghiệp , và nguyên nhân trực tiếp đẻ ra địa tô tuyệt đối là độc quyền tư hữu về ruộng đất .
   Song dù là địa tô chênh lệch hay địa tô tuyệt đối , nguồn gốc và bản chất của địa tô cũng chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư , do lao động không công của công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra . Nói cách khác ,địa tô chỉ là một hình thái đặc thù của giá trị thặng dư mà thôi .
   Địa tô cùng với lợi nhuận của nhà tư bản nông nghiệp chính là cái xác định tính qui định về mặt xã hội của tư bản kinh doanh trong nông nghiệp , nói lên tư bản nông nghiệp là mối quan hệ bóc lột , gắn liền với một quan hệ bóc lột khác của địa chủ do quyền tư hữu về ruộng đất sinh ra .
1.2.3.Các loại địa tô khác:
Ngoài những loại địa tô trên còn có các loại địa tô khác  như địa tô về cây đặc sản , địa tô về hầm mỏ , địa tô về các bãi cá , địa tô về đất rừng , thiên nhiên …
a.Địa tô về cây đặc sản:
Là địa tô thu được trên những đám đất trồng những cây quí mà sản phẩm có thể bán với giá độc quyền , tức là giá cao hơn giá trị. Người tiêu thụ những sản phẩm trên phải trả địa tô này .
b.Địa tô hầm mỏ
Đất hầm mỏ_đất có những khoáng sản được khai thác cũng đem lại địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối cho người sở hữu đất đai ấy.Địa tô hầm mỏ cũng hình thành và được quyết định như địa tô đất nông nghiệp.
c.Địa tô đất xây dựng:
Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô đất nông nghiệp.Nhưng nó cũng có những đặc trưng riêng:
+Thứ nhất,trong việc hình thành địa tô xây dựng ,vị trí của đất đai là yếu tố quyết định,còn độ màu mỡ và trạng tháI của đất đai không ảnh hưởng lớn.
+Thứ hai,địa tô đất xây dựng tăng lên nhanh chóng do sự phát triển của dân số,do nhu cầu về nhà ở tăng lên và do những tư bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên.
d.Địa tô độc quyền:
Địa tô luôn luôn gắn liền với độc quyền sở hữu ruộng đất,độc chiếm các đIều kiện tự nhiên thuận lợi,cản trở sự cạnh tranh của tư bản,tạo nên giá cả độc quyền của nông sản.Tuy nhiên,có những loại đất có thể trồng những loại cây cho những sản phẩm quý hiếm,có giá trị cao(như những vườn nho có thể cho những thứ rượu đặc biệt)hay có những khoáng sản đặc biệt có giá trị,thì địa tô của những đất đai đó sẽ rất cao,có thể xem đó là địa tô độc quyền .Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai ấy mà nhà tư bản phảI nộp cho địa chủ_ người sở hữu những đất đai đó.

Các địa tô như địa tô về đất xây dựng , địa tô địa tô về hầm mỏ , địa tô về các bãi cá , địa tô về đất rừng thiên nhiên ... tuy là địa tô thu được trên những đám đất phi nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở của địa tô nông nghiệp theo đúng nghĩa của từ này.Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch . Mac nói :” Bất kì ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp lợi dụng những sức tự nhiên ấy , chẳng kể đó là thác nước ,là hầm mỏ giàu khoáng sản , là những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt ,thì số lợi nhuận siêu ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa tô".






CHƯƠNG 2

Vận dụng lí luận về địa tô của Mac trong luật đất đai thuế nông nghiệp và việc thuê đất ở ViệT NAm
   Thông qua những lí luận về địa tô đã nghiên cứu ở trên , ta thấy địa tô tư bản chủ nghĩa là sự bóc lột của chủ ruộng đất đối với công nhân nông nghiệp làm thuê . Nó tồn tại ở nhiều hình thức : Địa tô chênh lệch , địa tô tuyệt đối , địa tô cây đặc sản , địa tô về đất xây dựng , địa tô về hầm mỏ, địa tô về bãi cá....
   Ngày nay, khi đất nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội , những lí luận địa tô đó được  Đảng và nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn dể xây dựng đất nước giàu mạnh. Lí luận địa tô của Mac đã trở thành cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp và các ngành có liên quan nhằm kích thích phát triển nông nghiệp và các ngành trong nền kinh tế .
  2.1 .Vận dụng trong luật đất đai:
   Đất đai là một tài nguyên vô cùng quí giá , là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống là địa bàn phân bố các khu dân cư , xây dựng các cơ sở kinh tế ,văn hoá , xã hội , an ninh và quốc phòng.
   Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao công sức xương máu mới tạo lập , bảo vệ được vốn đất như ngày nay. Ở mỗi chế độ đất đai lại thuộc về mỗi giai cấp khác nhau , ví như sở hữu của thực dân Pháp ,của bọn quan lại quí tộc Phong kiến , của địa chủ.... và dù ở chế độ nào cuối cùng Mac cũng kết luận :” Mỗi bước tiến của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến không những trong nghệ thuật bóc lột người lao động mà còn là bước tiến về mặt làm cho đất đai bị kiệt quệ mà sự bóc lột đó được thực hiện dưới nhiều hình thức trong đó có địa tô.”
   Ngày nay, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân do nhà nước thống nhất quản lí ( Nhà nước của dân... ). Nhà nước giao đất , rừng cho các tổ chức kinh tế , đơn vị vũ trang .. để sử dụng. ở đây thực hiện sự tách rời giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng ruộng đất nhằm sử dụng tài nguyên của đất nước một cách hiệu quả. Để bổ sung cho nguồn nhân sách và thông qua ngân sách thực hiện một số chính sách phát triển nông nghiệp những người thuê đất phải đóng thuế cho nhà nước . Thuế này khác xa với địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa vì thuế này tập chung vào ngân sách mang lại lợi ích cho toàn dân, nó không mang bản chất bóc lột của địa tô phong kiến và địa tô tư bản chủ nghĩa.....
2.2.Các đIều khoản:
  Với việc vận dụng một cách sáng tạo lí luận về địa tô của Mac ,nhà nước ta đã ban hành luật đất đai để quy định một cách rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người dân theo những điều khoản sau :
  Điều 1 : đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân , do nhà nước thống nhất quản lí.
  Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế ,đơn vị vũ trang , nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội , hộ gia đình , cá nhân , sử dụng ổn định lâu dài . Nhà nước còn cho tổ chức , hộ gia đình ,cá nhân thuê đất.Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân đựoc nhà nước cho thuê đất , giao đất trong luật này gọi chung là người sử dụng đất .
  Điều 4: Người sử dụng đất đai có trách nhiệm bảo vệ , cải tạo và sử dụng đất hợp lí , có hiệu quả , phải làm đầy đủ thủ tục địa chính , nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất và các khoản thu khác theo qui định của pháp luật .
  Điều 5: Nhà nước khuyến khích người sử dụng đất đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào các việc sau đây:
 _ Làm tăng giá trị sử dụng đất .
 _ Thâm canh tăng vụ ,nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
 _ Khai hoang , vỡ hoá , lấn biển để mở rộng diện tích đất , sản xuất nông nghiệp , lâm nghiệp , nuôi trồng thuỷ sản và làm muối.
 _ Bảo vệ ( tiết kiệm ) cải tạo làm tăng độ màu mỡ của đất .
 _ Sử dụng tiết kiệm đất .
   Điều 12: Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất , thu tiền khi giao đất , bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất . Chính phủ qui định khung giá các loại đất đối với từng vùng và theo từng thời gian.
  Điều 22: Tổ chức ,hộ gia đình ,cá nhân được nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp , lâm nghiệp , nuôi trồng thuỷ sản và làm muối không phải trả tiền sử dụng đất , nếu được nhà nước giao đất dể sử dụng và mục đích khác thì phải trả tiền sử dụng đất , trừ các trường hợp được miễn giảm theo qui định của chính phủ.
  Điều 79: Người sử dụng đất có những nghĩa vụ sau đây:
1.       Sử dụng đất đúng mục đích , đúng ranh giới và các yêu cầu khác đã được qui định khi giao đất .
2.       Thực hiện các biện pháp đẻ bảo vệ và làm tăng khả năng sinh lời của đất.
3.       Tuân theo những qui định về bảo vệ môi trường , không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dung đất xung quanh.
4.       Nộp thuế sử dụng đất , thuế chuyển quyền sử dụng đất , lệ phí địa chính theo qui định của pháp luật .
5.       Nộp tiền sử dụng đất khi được giao đất theo qui định của pháp luật
6.       Đền bù cho người có đất bị thu hồi để giao cho mình .
7.       Giao lại đất khi nhà nước có quyết định thu hồi trong những qui định trên đây của luật đất đai , người dân sử dụng đất phải có trách nhiệm bồi bổ cải tạo đất ...hay việc đóng thuế , tiền thuê đất... đều là một hình thức của địa tô .
Hiện nay nhà nước ta đang có những văn bản thu thuế sử dụng đất , đối với những nhà ở mặt đường thì mức thuế nhà đất là 15000đ/1m2/năm.Còn với những nhà trong khu dân cư thì thuế nhà đất là 10 000/1m2/năm.Tuy nhiên cho đến ngày 2/12/1998 Quốc hội nước CHXHCN VIET NAM khoá X kì họp thứ tư đã thông qua luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai, từ đó ta càng thấy lí luận  địa tô được vận dụng trong luật đất đai một cách linh động như thế nào.
  Điều 22: Được sửa đổi bổ sung như sau:
“Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất trong trường hợp sau đây:
1.1 Hộ gia đình , cá nhân trực tiếp lao động làm nông nghiệp , lâm nghiệp , nuôi trồng thuỷ sản , làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có từ các hoạt động sản xuất đó được uỷ ban nhân dân xã , phường , thị trấn xác nhận sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông nghiệp ,lâm nghiệp nuôi trồng thuỷ sản , làm muối trong hạn mức đất được nhà nước giao .
   Hộ gia đình đang sử dụng đất nông nghiệp vượt quá hạn mức trước ngày luật này có hiệu lực thì đước tiếp tục sử dụng diện tích đất vượt mức theo thời gian bằng 1/2 thời gian giao đất và phải nộp thuế bổ sung đối với diện tích đó theo qui định của pháp luật ; sau thời hạn này thì phải chuyển sang thuế đất . đối với diện tích đất vượt hạn mực có sau ngày luật này có hiệu lực thì người sử dụng đất đó phaỉ nộp thuế đất .
1.2 Tổ chức sử dụng đất để trồng và bảo vệ rừng phòng hộ , rừng đặc dụng .
1.3 Cơ quan nhà nước ,tổ chức chính trị , tổ chức chính trị xã hội , Đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng đất để xây dựng trụ sở làm việc , sử dụng đất vào mục đích quốc phòng an ninh.
1.4 Cơ quan nhà nước , tổ chức chính trị , tổ chức chính xã hội , đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng đất để xây dựng các công trình thuộc các ngành và lĩnh vực sự nghiệp kinh tế, văn hoá ,xã hội , khoa học kĩ thuật, ngoại giao.
1.5 Tổ chức sử dụng đất vào mục đích công cộng để xây dựng đường giao thông , cầu , cống vỉa hè, hệ thống cấp thoát nước , sông , hồ , đe đập ,trường học , bệnh viện ,công viên ,vườn hoa, khu vui chơi trẻ em, quảng trường , sân vận động , sân bay , bến cảng và các công trình công cộng khác theo qui định của chính phủ .
   Bổ sung điều 22a như sau :
2.1 Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất trong các trường hợp sau đây :
a.        Hộ gia đình , cá nhân có nhu cầu sử dụng đất làm nhà ở .
b.       Tổ chức kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất gắn liền với kết cấu hạ tầng đó.
c.        Tổ chức kinh tế đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê .
d.       Giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với một số trường hợp để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo dự án do chính phủ quyết định .
2.2 Việc giao đất có thu tiền sử dụng đất được qui định tại điểm d khoản 1 điều này phải bảo đảm các điều kiện sau đây:
a.        Người sử dụng đất phải có dự án khả thi đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt .
b.       Sử dụng đất phải theo đúng kế hoạch.
c.        Người sử dụng đất phải có điều kiện về vốn và kĩ thuật .
     Tiền thu được từ việc giao đất , tiền xây dựng công trình tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất được giao phải được hạch toán đaày đủ vào ngân sách nhà nước theo qui định của pháp luật.
3. Bổ sung điều 22 C như sau :
3.1 Tổ chức hộ gia đình , cá nhân , được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất , cho thuê đất được miễn giảm tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất trong các trường hợp sau đây :
a.        Thực hiện các dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư .
b.        Thực hiện dự án đầu tư tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn , điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn .
c.        Thực hiện chính sách nhà ở , đất ở .
d.       Các trương hợp khác theo quy định của pháp luật .
3.2 Chính phủ quy định cụ thể việc miễn giảm tiền sử dụng đất , tiền thuê đất
4 Bổ sung điều 78a như sau :
4.1 Hộ gia đình cá nhân được nhà nước cho thuê đất mà trả tiền thuê đất hàng năm có quyền :
a . Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất thuê và tài sản thuộc quyền sở hữu của mình gắn liền với đất thuê trong thời hạn thuê tại tổ chức tín dụng VN để vay vốn sản xuất , kinh doanh theo quy định Pháp luật .
b . Chuyền nhượng quyền sử dụng đất thuê cùng với tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê để thừa kế quyền sử dụng đất thuê trong thời hạn thuê theo quy định của pháp luật .
Người nhận chuyển nhượng , người được thừa kế quyền sử dụng đất thuê các quyền quy định tại khoản này .
4.3 Hộ gia đình cá nhân được nhà nước cho thuê đất đã trả tiền thuê đất cho nhiều năm , nếu thời hạn thuê đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm thì có các quyền quy định tại khoản 2 điều này .
Bên cạnh những quy định của luật đất đai về nghĩa vụ nộp tiền hay những lợi ích của người nộp tiền thuê đất , ta thấy địa tô được Đảng và Nhà nước ứng dụng một cách sáng tạo , đem lại lợi ích cho nhân dân , đồng thời làm cho quỹ NS của nhà nước tăng lên , nó không hề mang tính chất bóc lột như trong XH phong kiến hay XH TBCH .
Ngoài ra , trong pháp luật về đất đai của NN ta hiện nay cũng ban hành những quy định để người dân phải trả tiền thuê đất ( một hình thức của địa tô ) khi sử dụng đất một cách tự nguyện .
Việc giao đất đối với các loại đất có thể khái quát theo bảng sau đây

Loại đất
Khi giao
Khi sử dụng

1.Đất nông nghiệp
- Giao ổn định lâu dài ho hộ gia đình, cá nhân từ 20-50m
-Không nộp tiền sử dụng đất
-Nộp thuế sử dụng đất hàng năm.
-Nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất khi   chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Thu hồi đền bù thiệt hại hoặc trợ cấp theo quy định của NN

2.Đất ở
( khu dân cư)


-Giao sử dụng ổn định lâu dài.
-Phải nộp tiền sử dụng đất.
-nộp thuế đất hàng năm.
-Nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, khi chuyển quyền sử dụng đất.
3.Chuyên dùng
1.Giao sử dụng vào quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng:
+) Không phải nộp tiền sử dụng đất (được miễn).
+)  Nộp lệ phí địa chính.
2.Giao sử dụng vào mục đích kinh doanh.
+) phải nộp tiền sử dụng đất.
+) cho thuê đất.
-Không nộp thuế sử dụng đất.
-Nộp thuế đất.
-Nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, khi chuyển quyền sử dụng đất.
-Trả tiền thuê đất trực tiếp hoạch nhận nợ ngân sách nhà nước nếu góp vốn liên doanh
4.Đất chưa sử dụng
Tất cả mọi trường hợp đều phải nộp lệ phí địa chính( nếu đươc phục vụ về địa chính). Tuỳ trường hợp phải nộp lệ phí trước bạ


Số tiền sử dụng đất được miễn và giảm nộp , được xác định như sau :
Số tiền sử dụng đất được miễn hoặc giảm


=
Diện tích đất được giao hoặc được phép chuyển mục đích sử dụng ( m2 )


*
Giá đất mỗi mét vuông
( đ/m2 )


*
Tỷ lệ được miễn hoặc giảm

Việc thhu tiền sử dụng đất khi xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở , quyền sử dụng đất được thực hiện như sau :
- Trường hợp đất mua được sử dụng làm đất ở ổn định trước ngày
18/12/1980 ( ngày ban hành hiến pháp năm 1980 ) không có đử giấy tờ hợp lệ , nay xét phù hợp quy hoạch không có tranh chấp và được UBND phương chứng nhận thì được xét cấp chứng nhận quyền sở hữu nhà ở , quyền xử dụng đất ở và không phải nộp tiền sử dụng đất .
- Trường hợp đất đã được sử dụng làm đất ở ổn định trong thời gian từ 18/12/1980 đến ngày 15/10/1993 ( ngày Luật đất đai có hiệu lực ) nhưng không có đủ giấy hợp lệ này xét phù hợp với quy hoạch không có tranh chấp thì được cấp chứng nhận quyền sở hữu nhà ở , quyền sử dụng đất ở và phải nộp 20% tiền sử dụng đất .
- Trường hợp sử dụng làm đất ở sau ngày 15/10/1993 , không có đủ giấy tờ hợp lệ này xét phù hợp với quy hoạch , không có tranh chấp thì được xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở phải nộp 100% tiền sử dụng đất . Với những quy định trong Luật đất đai , nguồn đất của Quốc gia sẽ không bị sử dụng bừa bãi , sẽ được cải tạo bồi bổ và mỗi người dân khi sử dụng đất đều phải nộp thuế đất , chấp hành theo mọi quy định của nhà nước , đó cũng là một hình thức để Nhà nước thu địa tô .
 Nhờ việc phân tích về bản chất địa tô của Mác , Đảng và Nhà nước ta đã nhìn rõ được những hạn chế trong việc thu địa tô TBCN , từ đó đề ra những quy định đúng đắn ,vừa tăng thêm được NS NN , vừa khuyến khích người dân tự nguyện thực hiện .
 Với thời đại ngày nay , trong chế độ XHCN , địa tô không còn có định nghĩa : “ Địa tô là hình thức biến tướng của một phần giá trị thặng dư do người công nhân nông nghiệp tạo ra , mà nhà TB kinh doanh NN phải trả cho địa chủ “
 Mà hiện nay , đất  được cấp cho dân , dân có quyền sử dụng đất vào mục đích của mình . Nếu đối với đất ở thì người dân chỉ phải nộp một khoản tiền thuê đất rất nhỏ so với thu nhập của họ . Còn đối với đất để làm Nông nghiệp thì người dân phải nộp thuế , nhưng bù lại , họ có thể tự do kinh doanh trên mảnh đất của mình sao cho thu được nhiều lợi nhuận cao nhất .
Ví dụ: có vùng trồng lúa, có vùng trồng đay, có vùng trồng cà phê...

2.3.Vận dụng trong thuế nông nghiệp:
 Địa tô không chỉ được vận dụng trong luật đất đai mà còn được vận dụng rất nhiều trong thuế nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Thuế nông nghiệp ở đây không hề thể hiện sự bóc lột đối với người nông dân mà đó là quyền và nghĩa vụ của mỗi người nông dân.
  Để khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả, thực hiện công bằng, hợp lý sự đóng góp của tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách nhà nước.
  Căn cứ vào điều 84 của hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra luật quy định sử dụng đất nông nghiệp.

   Điều 1: tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào sản xuất mà không sử dụng vẫn phải nộp thuế sử dụng đất nông  nghiệp.
   Họ vẫn được giao quyền sử dụng đất nông nghiệp mà không sử dụng vẫn phải nộp thuế sử  dụng đất nông nghiệp.

   Điều 2:  Đất chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp là đất dùng vào sản xuất nông nghiệp bao gồm:
-   Đất trồng trọt.
-   Đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản.
-   Đất trồng rừng.

   Điều 3: Đất không thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp mà chịu các loại thuế khác hoặc không phải chịu thuế theo quy định của pháp luật bao gồm:
-   Đất có rừng tự nhiên.
-   Đất đồng cỏ tự nhiên.
-   Đất ở.
-   Đất chuyên dùng.
   Điều 4: Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sử dụng đất  nông nghiệp phải nộp tiền thuê đất theo quy định tại điều 29 của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, không phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định của luật này.
   Điều 5: Căn cứ thuế sử dụng đất nông nghiệp:
-   Diện tích.
-   Hạng đất.
-   Định suất thuế tính bằng kilogam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất

    Điều 6: Diện tích tính thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện tích giao cho hộ sử dụng đất phù hợp với sổ địa chính nhà nước.
   Trường hợp chưa nộp sổ địa chính thì diện tích tính thuế là diện tích ghi trên tờ khai của hộ sử dụng đất.

    Điều 7:
1.     Đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản được
chia làm 6 hạng, đất trồng cây lâu năm được chia làm 5 hạng.
    Căn cứ để xác định hạng đất gồm các yếu tố:
-   Chất đất.
-   Ví trị.
-   Địa hình.
-   Điều kiện khí hậu, thời tiết.
-   Điều kiện tưới tiêu.
     2.  Chính phủ quy định tiêu chuẩn hạng đất tính thuế theo các yếu tố nói tại điều này và có tham khảo năng suất bình quân đạt được trong điều kiện canh tác bình thường của 5 năm (1986-1990).
     3.  Hạng đất tính thuế được ổn định 10 năm. Trong thời hạn ổn định hạng đất, đối với vùng mà nhà nước đầu tư lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao, chính phủ điều chỉnh lại hạng đất tính thuế.
   
   Điều 8: Căn cứ vào tiêu chuẩn của từng hạng đất và hướng dẫn của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác định hạng đất tính thuế cho từng hộ nộp thuế trình cơ quan xét duyệt.

   Điều 9: Định suất thuế một năm tính bằng kilogram thóc trên 1 hecta của từng hạng đất sau:
1.     Đối với đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản.
     Hạng đất              
      Định suất thuế
           1
           2
           3
           4
           5
           6 
             550
             460
             370
             280
             180
               50

2.     Đối với đất trồng cây lâu năm.
       
                          Hạng đất              
      Định suất thuế
           1
           2
           3
           4
           5
             650
             550
             400
             200
               80          

3.     Đối với cây ăn quả lâu năm trồng trên đất trồng cây hàng năm chịu mức
 thuế như sau:
-   Bằng 1,3 lần thuế đất trồng cây hàng năm cùng hạng đất 1, hạng 2 và
 hạng 3.
-   Bằng thuế đất trồng cây hàng năm cùng hạng, nếu thuộc đất hạng 4,
 hạng 5 và hạng 6.
4.     Đối với cây lấy gỗ à các loại cây lâu năm thu hoạch một lần chịu mức
thuế bằng 4% giá trị sản lượng khai thác.

Điều 10:  Hộ sử dụngđất nông nghiệp vượt quá hạn mức diện tích theo quy
định của luật đất đai, thì ngoài việc phải nộp thuế theo quy định tại điều 9 của luật này, còn phải nộp thế bổ sung do uỷ ban thường vụ quốc hội quy định đối với phần diện tích trên hạn mức.
Đối với một số trường hợp vẵn được nhà nước ưu đãi, giảm thuế và miễn
thuế. Đây chính là sự linh động của nhà nước trong việc vận dụng lí luận điạ tô của Mác để tăng ngân sách quốc gia.

   Điều 19
1.      Miễn thuế cho đất đồi núi trọc dùng vào sản xuất nông, lâm nghiệp,
đất trồng rừng, phòng hộ và rừng đạc dụng.
2.      Miễn thuế cho đất khai hoang không thuộc quyền quy định tại khoản 1
điều 9 dùng vào sản xuất.
   Trồng cây hàng năm 5 năm. Riêng đối với đất khai hoang ở miền núi, đầm lầy và lấn biển là 7 năm.
   Đối với cây lấy gỗ và các loại cây lâu năm thu hoạch 1 lần chỉ nộp thuế khi khác thác theo quy định tại khoản 4, điều này của luật này.
3.      Miễn thuế cho đất trồng cây lâu năm chuyển sang trồng loại mới và đất
trồng cây hàng năm chuyển sang trồng cây lâu năm cây ăn quả. Trong thời gian xây dựng cơ bản và cộng thêm 3 năm từ khi có thu hoạch.
4.      Chính phủ quy định việc giảm thuế, miễn thuế đối với đất khai hoang
được đầy tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

   Điều 26:  Hộ di chuyển đến vùng kinh tế  mới khai hoang để sản xuất nông nghiệp được miễn thuế trong thời hạn theo quy định tại điều 19 của luật này và cộng thêm 2 năm.
    Nếu đất được giao là đất đang sản xuất nông nghiệp thì được miễn thuế trong thời hạn 3 năm kể từ ngày nhận đất.
   Điều 21: Trong trường hợp thiên tai, dịch họa làm thiệt hại mùa màng, thuế sử dụng đất nông nghiệp được giảm hoặc miễn cho từng hộ nộp thuế từng vụ sản xuất như sau:
1.      Thiệt hại từ 10% đến dưới  20%, giảm thuế tương ứng theo mức thiệt
hại.
2.      Thiệt hại từ 20% đến dưới 30%, giảm thuế 60%.
3.      Thiệt hại từ 30% đến dưới 40%, giảm thuế 80%.
4.      Thiệt hại từ 40% trở lên  giảm thuế 100%.

   Điều 22:
1.      Miễn thuế hoặc giảm thuế cho các hộ nông dân sản xuất ở vùng cao,
miền núi, biên giới, hải đảo mà sản xuất và đời sống còn nhiều khó khăn.
2.      Miễn thuế hoặc giảm thuế cho các hộ nông dân là dân tộc thiểu số mà
sản xuất và đời sống còn ngiều khó khăn.
3.      Miễn thuế cho các hộ nông dân là những người tàn tật, già yếu không
nơi nương tựa.

   Điều 23:
1.      Miễn thuế cho hộ nộp thuế có thương binh hang 1/4 và 2/4, bệnh binh
hang 1/3 và 2/3.
2.     Miễn thuế hoặc giảm thuế cho hộ nộp thuế là gia đình liệt sĩ.
3.     Giảm thuế cho hộ nộp thuế có thương binh, bệnh binh không thuộc
diện  miễn thuế theo quy định tại khoản 1 điều này mà đời sống có nhiều khó khăn.
    
     Điều 24:  Chính phủ quy định chi tiết việc giảm thuế, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.
     Việc giảm, miễn thuế cho những người dân có hoàn cảnh đặc biệt là một điều khác xa với việc thu địa tô tư bản chủ nghĩa, điều này cho  thấy sự sáng tạo của Đảng ta trong việc ứng dụng lí luận địa tô của Mác khi đề ra chính sách thuế nông nghiệp động viên thúc đẩy người dân sản xuất làm cho dân giàu nước mạnh.
      Hiện nay, tổng cục thuế đã ban hành quy  trình miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp số 137 TCT/ QD /  NV7 ngày 21/8/2001  cho các đối tượng chính sách xã hội như sau:
     Căn cứ vào đơn đề nghị miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp của các hộ nộp  thuế thuộc đối tượng chính sách xã hội. Đội thuế xã hội phối hợp với hộ đồng tư vấn thuế xã hội danh sách các hộ nộp thuế thuộc diện được miễn giảm thuế theo từng loại đối tượng chính sách xã hội như:  hộ gia đình có công với cách mạng, hộ đời sống có bệnh binh, hộ gia đình liệt sĩ, thương binh,  hộ gia đình có nhiều khó khăn và đầu năm giảm thuế cho các hộ này
( báo Pháp luật số 159 ra ngày 29/8/2001)
   Đối với các trường hợp bị thiên tai, dịch họa làm mùa màng thiêt hại ,tổng cục thuế cũng quy định:
      Trươc hêt là phải xác định mức độ thiệt hại mùa màng để xét miễn giảm thuế. Ngay sau thời điểm xảy ra thiên tai làm thiệt hại mùa màng. Đến vụ thu hoạch, chi cục thuế tỉnh chỉ đạo các chi cục thuế huyện nơi có thiên tai phối hợp với các ngành có liên quan ở huyệnh như : thống kê, nhà nước ... hướng dẫn kiểm tra các xã, xác định năng suất sản lượng thu hoạch thực tế của diện tích bị thiệt hại theo từng cánh đồng, xử đồng khu vực và lập biên bản thăm đồng. Sau đó tuỳ theo thiệt hại mà xét giảm thuế ( báo Pháp luật số 158 ngày 27/8/2001)
   Trên báo Tiền phong số ra ngày 27/8/2001 cũng cho biết Đảng và Nhà Nước ta đã quyết định xoá bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền để giảm bớt khó khăn cho người nông dân. Cuối năm 2001 và sang 2002, bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn có văn bản trình thủ tướng chính phủ về việc giảm thuế sử dụng đất cho nông nghiệp. Trong quá trình thực hiện chính sách, nhà nước đã thường xuyên thực hiện chủ trương “khoán sức dân, từng bước giảm mức động viên khoảng 20% trên sản lượng quy thóc hàng năm đã giảm xuống 10-12%. Tuy chính sách giảm thuế đã có tác động tích cực với đời sống xã hội khu vực nông thôn nhưng vẫn phát sinh một số vấn đề chưa hợp lý:   việc giảm 50% thuế nông nghiệp chỉ áp dụng đối với diện tích trồng lúa và cà phê, còn đối với nhiều loại hàng nông sản khác như chè, hạt tiêu, cũng bị thiệt hại, tuy đã được xét miễn giảm nhưng chưa kịp thời và đồng đều giữa các vùng miền...
    Ngày 1/3/2002, trao đổi với phóng viên báo Tiền phong, ông Nguyễn Đức Triều – ủy viên trung ương Đảng, chủ tịch hội nhân dân Việt Nam cho biêt. Tại hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá IX). Các đại biểu đã thống nhất việc xóa bỏ thuế hạn điền cho người  nông dân. Mức hạn điền tại các địa phương trên cả nước hiện nay được áp dụng theo nghị định 85/CP của chính phủ. Cụ thể: đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm nuôi trồng thuỷ sản và làm muối thì mức hạn điền của các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ, An Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa, Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh là không quá 3 hecta cho mỗi loại đất. Còn các tỉnh và thànhh phố trực thuộc trung ương khác không quá 10 hecta, các xã trung du, miền núi không quá 30 hecta. Những hộ vượt mức hạn điền phải nộp thuế theo  quy định của luật thuế sử dụng đất.
   Có thể nói việc xoá bỏ hạn điền là tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho người  nông dân. Điều này cho thấy sự tích cực vượt bậc của Đảng và Nhà Nước ta so với việc thu địa tô trong tư bản chủ nghĩa.
      Trên đây là những ứng dụng lí luận của Mác về địa tô trong việc đề ra thuế nông nghiệp cũng như luật đất đai để quy định nghĩa vụ quyền lợi đóng thuế của người dân.
    Sự khác biệt rõ nhất của việc quản lý đất đai và thu thuế bây giờ so với giai đoạn tư bản chủ nghĩa là đất đai là của dân. Nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành, nhà nước giao đất cho dân làm nông nghiệp, thu thuế nhưng tạo mọi điều kiện cho người dân sản xuất. Mặt khác, nhà nước còn đưa ra một số quy định cho thấy thuế trong nông nghiệp bây giờ giảm đi rất nhiều mà chủ yếu là tăng thuế trong việc thuê đất để hoạt động phi nông nghiệp.
      +  Trường hợp chuyển quyền sử dụng đất đai mà được phép chuyển mục đích từ đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp thì thuế suất từ 20% đến 40%, nếu từ đất nông nghiệp chuyển sang xây dựng các công trình công nghiệp từ 40% sang 60%, nếu từ đất trồng lúa ổn định chuyển sang mục đích phi nông nghiệp.
      +   Đối với các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng đất vào mục đích nông nghiệp thì không phải trả tiền sử dụngđất cho nông nghiệp, nếu sử dụng vào mục đích khác thì phải trả tiền, thậm chí phải chuyển sang hình thức thuê đất nếu là tổ chức sử dụng đất ở  trong nước.

http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/ly-luan-ve-dia-to-cua-cacmac-va-su-van-dung-vao-chinh-sach-dat-dai-o-viet-nam-hien-nay.html

2.4. Vận dụng trong việc cho thuê đất.
   Bên cạnh nghiên cứu việc thuê đất để phát triển nông nghiệp thì một điều mà chúng ta, những người kinh doanh trong tương lai không thể không quan tâm  đến. Đó là việc thuê đất để kinh doanh.
    Hiện nay,  một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một công ty thì họ phải thuê đất của nhà nước, với việc thuê đất này họ phải trả cho nhà nước một số tiền tương đương với diện tích cũng như vị trí của nơi được thuê.
   Trong việc thuê đất để kinh doanh nhà nước cũng quy định rõ:
   ·  Thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình tại ngân hàng Việt Nam để vay vốn sản xuất trong thời hạn thuê. Giá trị thế chấp do ngân hàng quyết định và không vượt quá giá trị tài sản đẫ đầu tư trên khu đất thế chấp cộng với tiền thuê đất đã  trả. Khi đến thời hạn mà không trả nợ thì ngân hàng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát mại tài sản trên đất mà tổ chức đã thế chấp để trả nợ ngân hàng và quyết định cho người mua tài sản được tiếp tục thuê đất.
   ·  Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh trong thời hạn thuê đất được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để liên doanh tổ chức, cá nhân trong nước với tổ chức cá nhân nước ngoài...
   ·   Đặc biệt các tổ chức được nhà nước cho thuê đất có nghĩa vụ  trả tiền thuê đất đầy đủ đúng thời hạn quy định. Tiền thuê được nộp hàng năm và được hạch toán vào giá thành sản xuất, kinh doanh hằng năm của tổ chức thuê đất. Ngoài ra, còn phải đền bù thiệt hại cho người có đất  bị thu hồi  để giao cho tổ chức này thuê theo quy định của nhà nước.
   Điều này cho thấy một sự khác biệt và sự vận dụng lí luận của Mác về địa tô của Đảng ta trong thời đại ngày nay. Đó chính là việc nhà nước sử dụng những văn bản  pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của người thuê đất để người dân khi nộp tiền thuê đất đều thông suốt và tự nguyện đóng.
   Trong việc thuê đất để kinh doanh thì người thuê đất đã thuê đất của nhà nước, sau đó phát triển kinh doanh trên mảnh đất của mình và lấy lợi nhuận mà mình làm xa để trả cho nhà nước.
   Ví dụ: nhà nước đã quy hoạch khu đô thị Định Công, xây dựng những kiôt  và cho những người kinh doanh thuê, người này có thể tự kinh doanh trên kiôt của mình, một phần lợi nhuận mà họ thu được trong việc kinh doanh sẽ được trả cho nhà nước, số tiền đó được cho vào ngân sách nhà nước.
    Hiện nay, không chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc kinh doanh mà nhà nước còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam, và tăng nguồn thu cho ngân sách. Số tiền mà người nước ngoài phải trả được quy định như sau:
2.4.1. Về giá thuê đất ở đô thị:
  Một trong những nội dung cơ bản cua hợp đồng thuê đất và là mối quan tâm hàng đầu của bên thuê là giá thuê đất. Việc quyết định giá cho thuê đất ở Việt Nam phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng phải đảm bảo sức hấp dẫn đối với các dự án đầu tư nước ngoài, phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều kiện kinh tế chính trị-xã hội của đất nước ta hiện nay.
    Theo Quyết định số 179/QD-BTC ngày 24/02/1998 thì giá thuê đất ở đô thị là:
     ¨  Đô thị loại 1: 1,00 ¸ 12,00 USD/m2/năm.
     ¨  Đô thị loại 2: 0,80 ¸   9,60 USD/m2/năm.
     ¨  Đô thị loại 3: 0,60 ¸   7,20 USD/m2/năm.
     ¨  Đô thị loại 4: 0,35 ¸   4,20 USD/m2/năm.
     ¨  Đô thị loại 5: 0,18 ¸   2,16 USD/m2/năm.
  Đối với đô thị thuộc địa bàn vùng núi, vùng sâu, vùng xa, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, giá thuê đất được xác định bằng 80% mức quy định chung. Các thị trấn ở các vùng này, giá thuê đất đô thị được xác định như sau:
   
   Đơn giá                   Mức giá tối           Hệ số           Hệ số     
   thuê đất           =   thiểu cho từng   ´     vị        ´     ngành
(USD/m2/năm)          nhóm đô thị            trí                nghề


a.Hệ số vị trí:
   Hệ số vị trí được chia làm 4 loại:
 § Vị trí 1 có hệ số là 3. Áp dụng cho các lô đất, thửa đất có mặt tiền tiếp giáp với đường phố chính của đo thị, đầu mối giao thông nội đô thị, rất thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt, có khả năng sinh lợi cao nhất, có giá đất thực tế cao nhất.

 § Ví trí 2 có hệ số 2,5. Áp dụng cho lô đất có mặt tiền không tiếp giáp với đường phố chính, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt và có khả năng sinh lợi kém vị trí 1, có giá đất thực tế trung bình thấp hơn giá đất thực tế của vị trí 1.

 § Vị trí 3 có hệ số là 2. Áp dụng cho các lô đất có mặt tiền không tiếp giáp nội đường phố, tương đối thuận lợi với các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt và có khả năng sinh lời kém vị trí số 2, có giá đất thực tế trung bình thấp hơn so với vị trí 2.

§  Ví trị 4 có hệ số là 1. Áp dụng cho các lô đất không có mặt tiền tiếp giáp với đường phố, ngõ phố,  kém thuận lợi đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sinh hoạt có giá đấu thấp nhất trong đô thị.

b.Hệ số kết cấu hạ tầng.
  · Hệ số 2 áp dụng cho các lô đất có đủ 3 điều kiện:
     +  Giao thông thuận lợi.
     +  Có công trình cấp trên ở gần nơi thực hiện dự án, có thể đáp ứng được các nhu cầu của dự án.
     +  Có hệ thống cấp nước gần hàng rào công trình có thể sử dụng cho dự án.
  · Hệ số 1,7 áp dụng cho lô đất thiếu một trong các điều kiện trên.
  · Hệ số 1,4 áp dụng cho lô đất thiếu hai điều kiện trên.
  · Hệ số 1 áp dụng cho lô đất thiếu cả 3 điều kiện trên.

c. Hệ số ngành nghề
  · Hệ số 2 áp dụng cho các ngành thương mại và du lịch khách sạn, nhà hàng, tài chính, tư vấn, môi giới, kinh doanh bất động sản (trừ kinh doanh cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà ở để bán hoặc thuê), ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán.
  ·  Hệ số 1 áp dụng cho các ngành sản xuất là phân phối điện, cấp nước và thóat nước, công nghiệp khai thác mỏ, luyện kim sản xuất máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải hoá chất cơ bản, phân dãn khí, công nghiệp chế biến sản phẩm nông lâm, thuỷ sản, sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, khám và chữa bệnh, thiết bị và phương tiện y tế, thể dục thể thao, xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường và xử lý chất thải đất xây dựng cầu đường, kinh doanh cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao và các cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ cao.
  ·  Hệ 1,5 áp dụng cho các ngành nghề khác không thuộc các ngành nghề áp dụng hệ số 2 và hệ số 1.

1.        Đối với đất tại các vùng núi đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng.Nếu sử
dụng cho các dự  án không phải là sản xuất, công nghiệp, dịch vụ, du lịch, thương mại thì đơn giá thuê đât được tính từ 30 đến 100 USD/ha/năm. Những vùng đất khác được tính từ 100 dến 600 USD/ha/năm.
2.       Đối với mặt nước sông, hồ, vịnh tiền thuê đất từ 75 đến 525
USD/km2/năm. Mặt biển có đơn giá tiền thuê là từ 150 đến 600 USD/km2/năm. Đối với trường hợp thuê đất có diện tích sử dụng không cố định thì áp dụng mức tiền thuê từ 150 đến 750 USD/năm.
   Mức tiền thuê đất nêu trên không bao gồm chi phí đền bù, giải toả. Sau mỗi thời hạn 5 năm nếu xét thấy cần thiết  thì bộ tài chính sẽ xem xét và điều chỉnh mức tiền thuê. Khi điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt quá 15% của mức quy định lần trước.
   Trên quy định của bộ tài chính về tiền thuê đất mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo đề nghị của giám đốc sở tài chính, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ:
-   Quyết định đơn giá thuê đất đối với dự án do mình cấp giấy phép đầu
tư.
-   Đề nghị bằng văn bản đơn giá thuê đất đối với dự án do mình cấp giấy
phép đầu tư.
-   Đề nghị bằng văn bản về đơn giá thuê đất đối với dự án thuộc thẩm
quyền cấp giấy phép của bộ kế hoạch và đầu tư ủy quyền cấp giấy phép. Trong trường hợp này, bộ kế hoạch và đầu tư (ủy quyền cấp giấy phép) hoặc cơ quan được bộ kế hoạch và đầu tư ủy quyết sẽ quyết định việc thuê giá đất.

3.Thời điểm tính tiền là thời điểm doanh nghiệp được bàn giao đất để sử
dụng. Trường hợp chưa bàn giao đất mà doanh nghiệp đã sử dụng đất thì thời điểm tính tiền thuê đất tính từ thời điểm doanh nghiệp sử dụng đất
   Tiền thuê đất được nộp mỗi năm 20, mỗi lần nộp 50% . Khuyến khích việc trả tiền một lần trong thời hạn 5 năm và trên 5 năm. Một tỷ lệ giảm nhất định
được ghi nhận rõ  tại quyết định H9 của bộ tài chính Việt Nam. Nếu trả cho 5 năm thì được giảm 5% số tiền thuê đất của 5 năm đó. Trả tiền cho thời hạn thuế đất trên 5 năm thì mỗi năm tăng thêm được giảm 1% số tiền thuê đất phải trả, nhưng  tổng mức không giảm quá 25% số tiền thuê đất phải trả của thời gian này. Trường hợp trả tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian thuê đất trên 30 năm thì được giảm 30% số tiền thuê đất phải trả.
    Với những quy định rõ ràng trên đây thì việc nộp tiền thuê đất sẽ diễn ra một cách dễ dàng.
    Có một hình thức thuế mà cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại rất rõ. Đó là địa tô độc quyền. Trong các thành phố lớn, ở các khu đất có vị trí thuận lợi cho phép xây dựng các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nàh cho thuê có khả năng thu lợi lớn thì giá thuê nhà, đất rất cao.
    Đến đây, sau khi đã nghiên cứu kỹ về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng như trong một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tô vẫn còn tồn tại nhưng về bản chất của nó hoàn toàn khác so với địa tô tư bản chủ nghĩa hay địa tô phong kiến.
    Nếu như trong xã hội phong kiến, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, người sử dụng đất phải nộp tô cho địa chủ . Tô đó là do các nhà điạc chủ năm giữ và hưởng thì ngày nay, điạ tô hay nói cách khác là thuế đất, thuế nhà, tiền thuê đất  đều được nộp vào ngân sách nhà nước. Nguồn ngân sách đó lại được dùng vào những việc công nhằm xây dựng đất nước.

 Tuy nhiên trong việc sử dung lí luận của Mác về địa tô vào trong luật đất đai, thuế nông nghiệp và một số ngành khác vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, hạn chế.
-  Như việc nhà nước thu đất của nông dân với giá rất rẻ (khoảng mấy chục ngàn một m2) sau đó quy hoạch, xây dựng nhà ở... và cho thuê với giá rất cao. Đây cũng là một vấn đề cần kiến nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền bù thỏa đáng.
     -  Ngay cả trong việc thực hiện xoá bỏ thuế hạn điền cũng phải gặp nhiều vướng mắc để thực hiện được nhanh chóng thì  các  địa phương cần rà soát lại hệ thống chính sách đất đai ở nhiều nơi rành mạch hoá phần diện tích cuả từng hộ nông dân, nhất là với diện tích đất nuôi trồng thủy sản ở các tỉnh ven biển, nơi mà nhiều nông ngư dân đã chuyển nhượng quyền sử dụng cho nhau, xác định chủ sở hữu ở những nơi này sẽ gặp khó khăn hơn trước. Bên cạnh đó việc xoá bỏ thuế hạn điền cho người nông dân sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của các cấp chính quyền địa phương đặc biệt là cấp xã. Họ sẽ gặp khó khăn trong chi trả phụ cấp cho cán bộ xã đang làm việc trực tiếp. Nhà nước nên có những hỗ trợ ngân sách trong một vài năm đầu, sau đó các địa phương phải từ vượt lên khó khăn tận thu các nguồn để dần tự trang trải.
 Trong việc cho người nước ngoài thuê đất cũng gặp nhiều khó khăn. Ngày 27/3 tại Hà Nội, tổng cục điạc chính và câu lạc bộ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tổ chức hội nghị lấy ý kiến góp ý kiến cho dự thảo sửa đổi, bổ sung pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam. Với nội dung sửa đổi lần này là mở rộng hình thức sử dụng đất, có những ý kiến cho rằng nếu cho phép việc thuê đất của nông dân thì sẽ xảy ra tình trạng nhà đầu tư thành điạ chủ khi họ thuê hết đất sản xuất của nông dân rồi lại thuê nông dân làm công trên chính mảnh đất đó. Bởi vậy nhà nước phải quy định chi tiết các điều kiệ ràng buộc thật chặt chẽ để nhằm kiểm soát được nếu pháp lệnh sửa đổi mở thêm hình thức cho phép nhà đầu tư nước ngoài thuê lại đất của nông dân (báo Tiền phong số 63 ra ngày 28/3/2002).
  Mặc dù hiện nay vấn đề thu địa tô (thuế đất và tiền thuê đất) có những cải tiến vượt bậc so với trước  nhưng đôi khi vẫn gặp những bất lợi trong công tác thu tiền và chỉ đạo người dân thi hành nghĩa vụ nộp thuế. Vì vậy, nhà nước đã phải đưa ra những giải pháp thật kịp thời. Ngày 6/5/2020, tại thành phố Hồ Chí Minh diễn ra cuôc họp của ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh triển khai chỉ thị số 08 về chấn chỉnh và tăng cường quản lý nhà nước vè nhà đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
  Các đơn vị và cá nhân trong diện kê khai phải kê khai về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính, trong đó xem đã nộp đủ tiền sử dụng đất hay chưa, số tiền đã nộp, đồng thời ghi tương ứng với số diện tích đã nộp tiền sử dụng đất thì tương ứng với số tiền phần trăm so với tổng số diện tích được giao. Cần ghi rõ phần lệ phí trước bạ đã nộp và  đã đạt bao nhiêu phần trăm so với nghĩa vụ phải nộp.


                          













KẾT LUẬN
 Sau khi nghiên cứu về lý luận địa tô của Mác , cũng như những ứng dụng sáng tạo của Đảng ta trong việc đề ra luật đất đai , thuế nông nghiệp và những quy định về thuế đất , ta thấy đây là một vấn đề rất cấp thiết mà những người làm kinh tế cần phải quan tâm .
 Hiện nay , việc thu thuế trong nông nghiệp đã được giảm đi rất nhiều, mà việc nộp thuế đang dần chuyển sang các nhà kinh doanh thuê đất để làm ăn. Nếu như trong chế độ TBCN , địa tô được thực hiện chủ yếu trong NN và khoản tô đó thuọc quyền sở hữu của địa chủ , thì ngày nay khoản thuế đó lại được giảm trong nông nghiệp và do NN quản lý , số tiền đó nằm trong NS quốc gia dùng vào các việc XH như xây trường học , bệnh viện ...
 Với việc thu thuế như ngày nay , NN vừa thúc đẩy được sự phát triển sản xuất trong NN , khuyến khích người dân sản xuất lại vừa tăng thêm nguồn NS cho NN .
 Tuy nhiên , việc nghiên cứu đề tài này cũng gặp nhiều khó khăn , và đây là một vấn đề ít được chú ý đối với những nhà kinh tế , khó tìm tư liệu ,và đặc biệt đây là vấn đề rất khó tư duy , nhưng em rất mong nhận được sự giúp đỡ và sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo .


MỤC LỤC
          
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................... 2
 B.CHƯƠNG 1:Lí luận về địa tô của C. Mác......................... 3
1.1.So sánh địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến:.......................................... 3
  1.1.1: Sự giống nhau................................................................................................... 3
  1.1.2:Sự khác nhau:.................................................................................................... 3
      a.Về mặt lượng....................................................................................................... 3
      b.Về mặt chất.......................................................................................................... 4
1.2.Các hình thức địa tô Tư Bản................................................................................... 4
  1.2.1.Địa tô chênh lệch............................................................................................... 4
       a.Địa tô chênh lệch 1............................................................................................. 6
       b.Địa tô chênh lệch 2............................................................................................. 7
   1.2.2.Địa tô tuyệt đối................................................................................................. 8
   1.2.3.Các loại hình thức địa tô khác........................................................................ 10
       a.Địa tô về cây đặc sản........................................................................................ 10
       b.Địa tô về hầm mỏ.............................................................................................. 10
       c.Địa tô về đất xây dựng..................................................................................... 10
       d. Địa tô độc quyền............................................................................................. 10
C.CHƯƠNG 2Vận dụng lí luận về địa tô của Mác trong luật đất đai thuế nông nghiệp và việc thuê đất ở Việt Nam
2.1.Vận dụng trong luật đất đai.................................................................................. 12
2.2 Các đIều khoản về luật đất đai............................................................................. 13
2.3.Vận dụng trong thuế nhà nước............................................................................. 19
2.4.Vận dụng trong việc cho thuê đất........................................................................ 27
  2.4.1.Về giá thuê đất ở đô thị................................................................................... 28
        a.Hệ số vị trí........................................................................................................ 29
        b.Hệ số kết cấu hạ tầng....................................................................................... 29
        c.Hệ số ngành nghề............................................................................................. 30
D. KẾT LUẬN........................................................................................................... 34
E.TÀI LIỆU THAM KHẢO:..................................................................................... 35

http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/ly-luan-ve-dia-to-cua-cacmac-va-su-van-dung-vao-chinh-sach-dat-dai-o-viet-nam-hien-nay.html

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU
   Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước.

Đọc thêm »

MỞ ĐẦU
   Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước.



Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền công nghiệp hoá hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển là tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên chưa cao. Vì thế, cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra.
Đặc biệt vấn đề về lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề kinh tế lớn của Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, thì lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp nói riêng và lợi ích của toàn xã hội nói chung luôn được quan tâm hàng đầu.
Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số Doanh nghiệp thì còn không ít những Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình trạng hoạt động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động khi chuyển sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều Doanh nghiệp còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh kinh doanh .
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, thì ta có thể thông qua những hình thức phân phối thu nhập của doanh nghiệp đó. Do đó tôi đã chọn đề tài: “Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho bài nghiên cứu khoa học của mình và hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ vào lý luận và phương pháp xây dựng để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay của Việt Nam.
-Mục tiêu nghiên cứu: nhằm chỉ ra cho người đọc hiểu rõ được thế nào là lợi ích kinh tế nói chung. Từ đó thông qua lý luận chỉ ra rằng tính tất yếu cho các doanh nghiệp là phải quan tâm đến lợi ích kinh tế. Mà trước hết và sát thực nhất là hình thức phân phối thu nhập hợp lý.

                               http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/loi-ich-kinh-te-va-cac-hinh-thuc-phan-phoi-thu-nhap-o-viet-nam-hien-nay.html

Chương 1
Lý Luận cơ bản về lợi ích kinh tế

1.1.Bản chất ,đăc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế
1.1.1.Lợi ích kinh tế:
     Ngay từ khi mới xuất hiện,con người đã tiến hành các hoạt dộng kinh tế hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và nó là cơ sở cho các hoạt động khác.Trong hoạt động kinh tế,con người luôn có động cơ nhất định.Động cơ thúc đẩycon người hành động.Mức độ hành động mạnh hay yếu tuỳ thuộc vào mức độ chín muồi của động cơ- tuỳ thuộc vào nhận thức và thực hiện lợi ích của họ.Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập là những vấn đề rộng lớn liên quan đến các hoạt động kinh tế,văn hoá,xã hội của nhà nước và nhân dân lao động,trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Chính vì thế mà em chọn đề tài:Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
  Lợi ích là gì?Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích, ích lợi , có lợi được sử dụng như là cùng nghĩa và có thể thay thế nhau.Lợi ích không phải là cái gì trừu tượng và có tính chất chủ quan,mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan của con người .Con người có nhiều loại nhu cầu(vật chất,chính trị,văn hoá), do đó có nhiều loại lợi ích(lợi ích kinh tế ,lợi ích chính trị,lợi ích văn hoá,tinh thần)
 Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan,nó xuất hiện trong những điều kiện tồn tại là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể kinh tế.Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác định về mặt xã hội thì nó trở thành cơ sở,nội dung của lợi ích kinh tế.
      Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất,nó được quy định một cách khách quan bởi ohương thức sản xuất,bở hệ thống quan hệ sản xuất,trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.Ph.Ănghen viết:"những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích".V.I.Lênin  cũng cho rằng:Lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác được xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ thống quan hệ sản xuất,theo những hoàn cảnh và đIều kiện sống của họ.
Là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất,lợi ích kinh tế thể hiện trong tất cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.Cần khẳng định rằng,ở đâu có hoạt động sản xuất-kinh doanh thì ở đó có lợi kinh tế và chủ thể sản xuất-kinh doanh cũng là chủ thể của lợi ích kinh tế.
1.1.2.Vai trò của lợi ích kinh tế:
Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống.Chính những lợi ích kinh tế đã gắn bó con người với cộng đồng của mình và tạo ra những kích thích,thôi thúc,khát vọng và sự say mê trong hoạt động sản xuất-kinh doanh cho người lao động.Lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiên đúng thì nó sẽ là động lực kinh tế thúc đẩy con người hành động.Do đó,lợi ích kinh tế thể hiện như là một trong những động lực cơ bản của sự tiến bộ xã hội nói chung,phát triển sản xuất-kinh doanh      nói riêng.Ph.Ăngghen cho rằng,lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay chuyển những quần chúng đông đảo.Và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người :"thì chúng lấy động đời sống nhân dân"
Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố,duy trì các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất -kinh doanh.Một khi con người(chủ thể)tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi ích kinh tế tương xứng với kết quả sản xuất kinh doanh thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ thể lợi ích.Ngược lại,khi không mang lại lợi ích hoặc lợi ích không được đầy đủ thì sẽ làm cho các mối quan hệ đó(quan hệ giữa các chủ thể)xuống cấp. Nếu tình trang đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tiêu cực trong hoạt động sản xuất-kinh doanh.
    Lợi ích kinh tế thiết thân của cá nhân người lao động là động lực trực tiếp đối với sự hoạt động của từng con người nói riêng và của cả xã hội nói chung.
    Trong giai đoạn lịch sử hiện nay của đất nước, các lợi ích kinh tế, lợi ích trứơc mắt của các cá nhân đang là cấp bách nhất, vì thế , nó cũng đang đóng vai trò quan trọng hơn cả trong việc thúc đẩy các chủ thể hoạt động và qua đó gây nên sự vận động , phát triển của xã hội. Vì vậy vào thời điểm lịch sử hiện nay, chúng ta phải chủ trương tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các cá nhân , các gia đình cũng như các nhóm xã hội thực hiện các lợi ích trên đây là hết sức đúng đắn, là phản ánh đúng những đòi hỏi khách quan của thực tiễn cuộc sống. Thực ra, thông qua các chủ trương ấy, chúng ta nhằm vào các mục đích lớn lao hơn- đó là đưa xã hội thoát khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
1.2.Các cơ cấu lợi ích kinh tế trong các thành phần kinh tế ở nước ta:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất-kinh doanh.Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định: ở nứơc ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế.Đó là:
+Kinh tế tập thể: Có thể nói các hợp tác xã(HTX)  được thành lập và tồn tại mấy chục năm qua được hình thành trên cơ sở tập thể hoá các tư liệu sản xuất mang tính phong trào và được nền kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp, nuôi dưỡng đến nay hầu như bị tan rã hoặc đang đứng trước nguy cơ tan rã. Các hợp tác xã nông nghiệp và thương nghiệp, dịch vụ hầu như đã biến dạng và biến mất hoàn toàn.
Riêng trong nông nghiệp các HTX hay các tập đoàn sản xuất(TĐSX) diễn ra theo hai xu hướng sau:
- Phần lớn các HTX va TĐSX được thành lập trước đây đã bị tan rã và giải thể .
- Số còn lại tồn tại chủ yếu mang tính chất hình thức làm dịch vụ phục vụ, thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển.
Dĩ nhiên, cùng với sự tan rã và giải thể hàng loạt của các HTX và các TĐSX trong cả nông nghiệp, công nghiệp thương nghiệp và dịch vụ theo mô hình cũ là sự hình thành những loại hình hợp tác kiểu mới đa dạng ra đời một cách khách quan do yêu cầu của đời sống và sản xuất xã hội. Loịa hình hợp tác này được hình thành trên cơ sở các thành viên xã viên tự nguyện tham gia và đóng góp cổ phần trên nguyên tắc cùng có lợi , lời ăn, lỗ chịu. Trong công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ nó mang tên Tổ hợp sản xuất, công ty… tuỳ theo tính chất và quy mô, còn trong nông nghiệp nó được hình thành và hiện còn ở dạng quy mô  hợp tác nhỏ.
    Các quan hệ kinh tế của các HTX và TĐSX trước đây gắn liền với nhà nước, còn các quan hệ kinh tế của các công ty , các hợp tác xã mới được hoạt động mấy năm qua gắn liền với cơ chế thị trường.
    HTX và TĐSX trước đây là một bộ phận của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, quy định bởi nhà nước và vận động theo xu hướng chung đó. Còn kinh tế hợp tác hiện nay là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động, người sản xuất nhỏ, dưới các hình thức hết sức đa dạng , được Đảng và nhà nước ta coi là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cùng với kinh tế nhà nước dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế .Chỉ thị ngày 24-5-1996 của Ban bí thư TƯ Đảng về phát triển kinh tế hợp tác chỉ rõ: " Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của HTX, không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX". Tuy nhiên, nhà nước khuyến khích phát triển mọi hình thức kinh tế hợp tác , có các chính sách ưu đãi , hỗ trợ HTX về đất đai, thuế tín dụng , đầu tư, xuất nhập khẩu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ …Trong điều kiện vừa được nhận sự ưu đãi , hỗ trợ từ nhà nước , vừa được hoàn toàn độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, kinh tế tập thể hiện nay vận động theo xu hướng khác nhau , vừa bị quy định bởi cơ chế thị trường , vừa phụ thuộc vào xu hướng chung của các thành viên tham gia hợp tác.
   Đối với kinh tế tập thể, nhà nước với các chức năng của mình, nhất là chức năng hành pháp và kinh tế , thông qua các luật doanh nghiệp, đầu tư…,các chính sách thuế , chính sách bảo trợ sản xuất, các dịch vụ kỹ thuật ,cung ứng vật tư, tiêu dùng sản phẩm và ngân hàng, tín dụng…, trong những chừng mực nhất định, những phạm vi và quy mô nhất định có thể định hướng điều chỉnh sự vận động và phát triển của kinh tế tập thể theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Dĩ  nhiên, đó là sự điều tiết ở tầm vĩ mô. Chắc chắn rằng trong tương lai thành phần kinh tế tập thể sẽ cùng với thành phần kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta chủ trương.
.+Kinh tế tư bản nhà nước : Đó là thành phần kinh tế mới xuất hiện từ khi ta thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Có thể kể 2 loại hình chủ yếu của kinh tế hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân này là: liên doanh và hợp doanh, giữa nhà nước và tư bản nước ngoài; và liên doanh, hợp doanh, hỗn hợp , giữa nhà nước và doanh nghiệp trong nước và tư bản nước ngoài.
   Hiện nay , 70-75% các dự án liên doanh với các nhà tư bản nước ngoài đều có quy mô trên dưới 7 triệu USD . Điều đó chứng tỏ các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam giai đoạn đầu này phần lớn mới chỉ là công ty nhỏ, vốn ít, tìm kiếm cơ hội có thể mang lại lợi nhuận ngay và thu hồi vốn nhanh. Do vậy, chưa có các dự án tầm cỡ đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng và kinh tế mũi nhọn. Thu hút các nhà đầu tư giai đoạn hiện nay phần nhiều là điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ, du lịch, khách sạn và ngân hàng.
     Trong những năm vừa qua, các nhà đầu tư vào Việt Nam gặp không ít khó khăn nhất là thủ tục hành chính môi trường đầu tư…Vì vậy, muốn thu hút các dự án lớn cần trước hết làm trong sạch môi trường đầu tư cũng như ban hành và thực thi pháp luật nghiêm minh, đồng bộ và bình đẳng  .
   Dù nhà nước là đồng tác giả nhưng thành phần kinh tế tư bản nhà nước vẫn tuân theo những quy luật thép của kinh tế thị trường. ở đây xu hướng phát triển của các doanh nghiệp liên doanh này sẽ phụ thuộc vào chủ thể bỏ vốn đâù tư nhiều hơn trên 50% . Nếu phía nhà nước đầu tư phía đối tác bên ngoài góp vốn lớn hơn thì dù nhà nước có tham gia điều tiết ở cả tầm vĩ mô và vi mô như thế nào chăng nữa thì xu hướng vận động tự nhiên của nó cũng vẫn nghiêng về con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Ngoài ra còn có:
   +Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
+Kinh tế nhà nước.
+Kinh tế cá thể,tiểu chủ.
+Kinh tế tư bản tư nhân
  Như vậy,trên một góc độ nào đấy(dựa vào các mối quan hệ kinh tế trực tiếp chẳng hạn) ta có thể thấy được 6 cơ cấu các lợi ích kinh tế,đó là:
_Thành phần kinh tế nhà nước có lợi ích của Nhà nước(xã hội);lợi ích tập thể;lợi ích cá nhân người lao động.
_Thành phần kinh t ế tập thể có lợi ích tập thể; lợi ích xã hội;lợi ích cá nhân.
_Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có lợi ích của doanh nghiêp;lợi ích của xã hội;lợi ích của cá nhân người lao động.
_Thành phần kinh tế cá thể,tiểu chủ có lợi ích cá nhân,lợi ích xã hội.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân có:lợi ích chủ doanh nghiệp;lợi ích cá nhân người lao động;lợi ích xã hội.
_Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài;lợi ích của nước chủ nhà; lợi ích của người lao động trong các doanh nghiêp liên doanh.
 Trong các cơ cấu lợi ích kinht ế ấy,thì lợi ích kinh tế nhà nước(xã hội)giữ vai trò"hàng đầu"và là cơ sở để thực hiện các lợi ích khác,còn lợi ích kinh tế của người lao động là quan trọng,nó thể hiện như là động lực trực tiếp thúc đẩy người lao động.
    Trong nền kinh tế thị trường,mỗi cá nhân,doanh nghiệp. Chỉ hành động khi họ thấy đựơc lợi ích kinh tế của mình mà không cần thuyết phục hoặc cưỡng bức.Song,vì có nhiều lợi ích kinh tế khác nhau và vì lợi ích riêng  của mỗi cá nhân,vì lợi ích cục bộ,trước mắt có thể làm tổn hai đến lợi ích chung của cộng đồng(tập thể và xã hội).Do đó,nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách là người tổ chức cán bộ quản lý và điều hành nền kinh tế vĩ mô phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế và hướng chúng vào một quỹ đạo chung,tạo động lực lâu bền,mạnh mẽ và vững chắc cho sự phát triển.
   Giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là một vấn đề khá phức tạp và giữ vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu nguồn gốc,động lực  phát triển xã hội nói chung,phát triển kinh tế thị trường nói riêng.Theo Ph.Angghen,"ở đâu không có lợi ích chung,ở đó không có sự thống nhất về mục đích".Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế là tạo ra các điều kiện trong đó việc thực hiện các lợi ích sao cho cùng một hướng và đảm bảo tính hàng đầu của lợi ích xã hội,cái có lợi đối với xã hội thì phải có lợi ích đối với tập thể, cá nhân và mỗi doanh nghiệp. Đó là nguyên tắc của sự kết hợp kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
  Giải  quyết tốt mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế phải tính đến sự đan chéo ,chế ước, tác động qua lại giữa các lợi ích kinh tế, đồng thời phải tính toán, một cách toàn diện ,đảm bảo lợi ích trước mắt ,lâu dài, lợi ích toàn bộ,bộ phận.
  Ở nứơc ta hiện nay,sự kết hợp các lợi ích kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy mục tiêu:dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ ,văn minh.Hướng các lợi ích vào quỹ đạo chung và sự kết hợp chúng nhằm tạo ra động lực cho sự phát triển bằng cách:
_ Với chức năng tổ chức kinh tế,nhà nước ta động viên mọi   người,mọi lực lượng,mọi thành phần kinh tế,thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế 2001-2010.
_ Xác định về lượng của mỗi loại lợi ích kinh tế và quan hệ tỷ lệ về mặt lượng giữa các loại lợi  ích kinh tế (đây là vấn đề phức tạp) có thể và cần thực hiện bằng các hình thức kinh tế thể hiện ở một số chính sách kinh tế của nhà nước:tiền lương,chính sách giá cả,thị trường,tín dụng,thuế,phân phối lợi nhuận,….
1.3.Lợi ích kinh tế và vấn đề phát triển cộng đồng trong giai đoạn hiện nay
 Sự say mê làm giàu hiện nay của xã hội ta thực chất là sự say mê các lợi ích kinh tế- lợi ích vật chất. Thế nhưng đời sống con người không phải chỉ có kinh tế, vật chất. Đời sống của một xã hội cũng không phải chỉ có vật chất.
Đành rành , vào những thời điểm nhất định của tiến trình phát triển của xã hội, có thể phương diện này hay phương diện kia của đời sống xã hội được ưu tiên ,được tập trung nhiều hơn. Thế nhưng, điều ấy không có nghĩa là hạ thấp hay bỏ qua các mặt các phương diện khác. Sự tồn tại và phát triển của đời sống, xã hội là một quá trình liên tục .Do đó, sự gián đoạn hay gãy khúc của mặt này hay mặt kia của đời sống xã hội bao giờ cũng gây ra những tổn thương, những biến động, thậm chí tạo ra những lực lượng phá vỡ hoặc đẩy lùi quá trình phát triển của toàn thể cộng đồng.
  Chính vì thế, trong thời gian vừa qua,do bị cuôn hút vào thực hiện các nhu cầu tồn tại tối thiểu- nhu cầu vật chất- mà ta ít có điều kiện quan tâm nhiều đến các phương diện, các khía cạnh khác của cuộc sống xã hôi. Điều đó trong chừng mực nhất định đã dẫn đến việc làm nảy sinh một số vấn đề về văn hoá xã hội khác khá bức xúc.
  Vì vậy, trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, để phát triển cộng đồng một cách toàn diện và bền vững cần sớm tạo lập một cơ chế kết hợp hài hoà một số quan hệ sau:
1.3.1. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá- xã hội
Đây là một quan hệ cơ bản , bao trùm và chi phối hầu như toàn bộ đời sống xã hội. Thế nhưng nó không hề trừu tượng mà hết sức cụ thể trong cộng đồng. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các quan hệ kinh tế thời gian qua cũng gây nên sự thay đổi hết sức căn bản các vấn đề văn hoá- xã hội .Có thể nói ,sự chuyển đổi trong lĩnh vực văn hoá- xã hội chủ yếu mang tính tự phát và có rất nhiều biêủ hiện lúng túng.
  Những hoạt động văn hoá-xã hội cộng đồng này trước đây vừa được nhà nước bao cấp vừa được các hợp tác xã hay các cấp chính quyền địa phương hỗ trợ về kinh phí. HIện nay, các nguồn kinh phí bao cấp chính không còn nữa. Do vậy, các hoạt động mang tính cộng đồng này hầu như bị bỏ rơi. ở nhiều nơi, nhiều lúc các hoạt động văn hoá tinh thần của cộng đồng cở sở hoặc bị lôi cuốn theo hướng này , hướng khác, hoặc bị xuống cấp, tan rã, mất phương hướng, rối loạn.
  Như vậy, trong điều kiện chuyển đổi cơ chế hiện nay, lợi ích kinh tế của cá nhân và xã hội ngày càng được thực hiện, nhưng các lợi ích văn hoá-xã hội hướng vào sự phát triển cộng đồng và nhân tính hầu như không được quan tâm một cách đúng mức .Nghĩa là, hiện đang có sự vận động ngược hướng nhau giữa kinh tế và văn hoá- tinh thần trong cộng đồng xã hội, vì thế một số vấn đề văn hoá- xã hội hầu như chưa được quan tâm một cách đúng mức. Nhiều cộng đồng cơ sở càng hoà nhập vào đời sống kinh tế thị trường thì càng trở nên phức tạp hơn.
  Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để tạo lập được một cơ chế linh hoạt:có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đồng thời thúc đẩy sự phát triển phong phú và đa dạng các lĩnh vực văn hoá- xã hội. Nghĩa là, tạo lập được một sự phát triển đồng hành tổng thể của một cộng đồng xã hội.
  Đó là một cơ chế được thiết lập  và  chế định thống nhất từ trung ương đến địa phương, được quản lý, điều tiết và tài trợ , tài chính theo các cấp chính quyền của nhà nước. Dĩ nhiên, đây là một cơ chế mở để có thể thu hút và huy động được các nguồn tài chính và tài trợ trong nhân dân. Chỉ có như thế mới tạo cho xã hội phát triển một cách thực sự bền vững.
1.3. 2. Lợi ích kinh tế và các vấn đề chính sách xã hội
Trong giai đoạn kinh tế thị trường mở cửa hiện nay, sự đề cao lợi ích kinh tế của các chủ thể hoạt động bị quy định bởi tính tất yếu khách quan chứ không phải do ý muốn chủ quan của bất cứ cá nhân nào. Đó chẳng qua chỉ là sự tuân thủ các quy luật khách quan đang chi phối đời sống kinh tế xã hội đất nước
 Thế nhưng các quy luật khách quan khi xuất hiện và hoạt động thường bị chi phối bởi các ý muốn chủ quan của các chủ thể mà thường mang tính"tự nó" .Do vậy, nó không tính đến khía cạnh tình cảm và nhân văn của con người, cũng không tính đến các duyên nợ quá khứ của các chủ thể hoạt động.Vì lẽ đó, trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế, nhiều vấn đề thuộc về chính sách xã hội đang được đặt ra hết sức cấp bách.
   Đó là do , xã hội ta vừa bước ra khỏi những cuộc chiến tranh kéo dài và khốc liệt.Xương máu của hàng triệu người đã đổ, tài sản của hàng triệu người đã được huy động ,góp vào cuộc đấu tranh vào nền độc lập tự do của dân tộc. Rõ ràng, khi bước vào xây dựng lại đất nước trong điều kiện hoà bình, trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, ta không thể quay lưng lại với thế hệ qúa khứ của cha anh, không thể để mặc cho những quy luật kinh tế thị trường lạnh lùng chi phối và dẫn dắt xã hội ta.
   Vấn đề là, trên cơ sở những thành quả hết sức đáng khích lệ do nền kinh tế thị trường mang lại, ta cần sớm tập trung và giải quyết những vấn đề thuộc về chính sách xã hội,có thể khẳng định đây là những vấn đề luôn đặt ra trong mọi xã hội, nhưng riêng với nước ta có những nét rất đặc biệt
  Thứ nhất,xã hội ta vừa trải qua hai cuộc kháng chiến, sự mất mát với một bộ phận dân cư là vô cùng lớn, không gì bù đắp nổi, chúng ta phải có những chính sách hậu chiến như thế nào để tương ứng với công trạng và những hy sinh của họ. Đây là những khía cạnh hết sức nhạy cảm và nó càng nhạy cảm hơn, do sự phân hoá giàu nghèo ngày càng diễn ra mạnh mẽ trong xã hội ngày nay. Giải quyết đúng đắn vấn đề này là những hành động thực tiễn khẳng định lí tưởng cao đẹp của Đảng và nhà nước ta.
   Thứ hai, xã hội ta mấy chục năm qua đã thực hiện cơ chế quản lý mang tính bao cấp .Những hạn chế của nó thì không ai có thể bào chữa được nhưng những ưu điểm của nó thì  chắc chắn không ai có thể phủ định được. Trong những ưu điểm thể hiện tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa của chúng ta có những vấn đề thuộc chính sách xã hội, trong đó đặc biệt là khía cạnh phúc lợi xã hội và đảm bảo xã hội.
   Hiện nay chế độ bao cấp bình quân không còn nữa, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng mạnh mẽ thì khả năng và cơ hội của người dân thì ngày càng cách biệt nhau. Sự bất bình đẳng về kinh tế sẽ dẫn đến bất bình đẳng về xã hội. Thói quen, nếp nghĩ và nối sống của thời bao cấp khi va đập vào cơ chế thị trường đã tạo nên những "cú sốc" khá nặng nề về tâm lý đối với không ít người.
    Vậy làm thế nào để thực hiện được phúc lợi xã hội chung nhằm tạo ra các cơ hội bình đẳng cho mọi người dân , nghĩa là tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi người để họ có chung một nền tảng, một điểm xuất phát, cùng hoà nhập, cùng phát triển? Làm thế nào để hạn chế và ngăn chặn xu hướng phát triển chủ nghĩa cá nhân cực đoan và phát huy được tinh thần tập thể , cộng đồng sẵn có trong truyền thống văn hoá , dân tộc?
   Cố nhiên, nếu kinh tế không phat triển, nếu dân không giàu ,nước không mạnh thì chắc chắn thì không thể thực hiện được những vấn đề chính sách xã hội ở một mức độ nào đó. Thế nhưng, sự tăng trưởng kinh của đất nước trong giai đoạn vừa qua đã bước đầu tạo ra một cơ sở nhất định để thúc đẩy việc thực hiện các vấn đề thuộc về chính sách xã hội như phúc lợi xã hội ,bảo hiểm xã hội và bảo trợ xã hội.
    Mặc dù xã hội nào cũng có những chính sách xã hội, nhưng do trong điều kiện đặc biệt của xã hội ta mà trong tình hình hiện nay chúng ta cần hết sức quan tâm giải quyết . Đây là những vấn đề lớn của đời sống kinh tế xã hội và chính nó cho thấy tính ưu việt của một chế độ xã hội. Vì vậy , việc giải quyết vấn đề này một cách đúng đắn kịp thời sẽ đóng góp , khẳng định sự định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển của xã hội ta giai đoạn hiện nay.
1.3.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề môi trường sống:
    Trong nhiều năm qua chúng ta rất ít quan tâm đến vấn đề môi trường sống- cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Vì vấn đề này trong suốt gần nửa thế kỷ qua có thể nói chưa khi nào đặt ra một cách gay gắt, đòi hỏi xã hội phải đầu tư giải quyết như hiện nay.
  Thực vậy,có thể nói việc quản lý và điều khiển cộng đồng theo mô hình hành chính thống nhất trước đây đã tạo ra một môi trường xã hội thực sự ổn định và thuần nhất. Những chuẩn mực xã hội, những giá trị đạo đức, những đặc trưng cơ bản của con người mới được đề cao tạo nên những khuôn đúc sẵn có về thế hệ con người .Khi ấy, nếu có một người nào đó hay những biểu hiện nào đó khác với khuôn mẫu thì sẽ bị  cộng đồng, toàn xã hội nên án,ngăn chặn và cô lập.
    Bây giờ nhìn lại, ta có thể phê phán những hạn chế của cách quản lý và điều khiển xã hội theo mô hình ấy.Nhưng rõ ràng, môi trường xã hội ngày đó thực sự trong sạch và lành mạnh. Những tệ nạn xã hội như tình trạng phạm pháp, mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, buôn lậu…gần như bị loại bỏ ở đời sống xã hội trong nhiều chục năm.
  Đối với tự nhiên cũng thế. Có lẽ là do trước đây dân cư còn thưa thớt nhu cầu con người còn đơn giản và được quản lý tập trung thống nhất, hơn thế, chúng ta lại được điều kiện tự nhiên ưu đãi , đồng thời cả xã hội ta còn đang dồn sức vào sự nghiệp thống nhất đất nứơc ở một chừng mực nhất định ,có thể nói trong hàng chục năm chúng ta không phải bận tâm đến nạn phá rừng , ô nhiễm môi trường hay chất thải công nghiệp….
  Nhưng trong khoảng hơn mười năm trở lại đây nhất là mấy năm qua, vấn đề môi trường sinh sống của xã hội ta nổi lên hết sức gay gắt .
  a.Môi trường xã hội:
Thực hiện kinh tế thị trường , mở cửa và dân chủ hoá đời sống xã hội đã làm thay đổi căn bản diện mạo của xã hội ta . Nét đặc biệt dễ nhận thấy là cùng với sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của con người là sự thay đổi các chuẩn mực xã hội và lối sống. Đáng lo ngại là sự xuất hiện tràn lan những tệ nạn xã hội có nguy cơ không kiểm soát nổi. Đó là những băng nhóm tội phạm có tổ chức và vũ khí đe doạ tài sản , tính mạng của người dân; đó là nạn mại dâm và ma tuý phát triển tràn lan tàn phá những tế bào cuối cùng của xã hội và thách thức giống nòi trước nạn dịch thế kỷ; đó là nạn buôn lậu ,lừa đảo và tham nhũng…những tệ nạn xã hội này dường như đã gặp được môi trường thuận lợi để sinh sôi nảy nở.
 Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội này xét đến cùng thì  nguyên nhân kinh tế đóng vai trò cơ bản . Vì những lợi ích kinh tế của cá nhân mình mà những đối tượng này bất chấp tất cả mà không trừ một thủ đoạn nào kể cả giết người. Sự phát triển cực đoan của lối sống cá nhân, lối sống tiêu dùng , sự say mê đời sống vật chất một cách bệnh hoạn đã làm cho không ít người mất nhân tính. Đó thực sự là một nguy cơ đe doạ sự phát triển lành mạnh và ổn định xã hội trong điều kiện hiện nay.
b. Môi trường tự nhiên:
   Không phải chỉ có vấn đề môi trường xã hội đang đứng trước nguy cơ và thách thức lan giải mà môi trường tự nhiên cũng đang đặt ra những vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Cùng với sự tàn phá môi trường tự nhiên, sự cân bằng sinh thái mang tính tổng thể quốc gia, quá trình huỷ hoại quá trình sinh thái cũng đang phổ biến ở tầm vi mô. Chính việc sử dụng một cách vô tội vạ, kém hiểu biết phân hoá học và thuốc trừ sâu với nồng độ cao mà môi trường sống nông thôn bị ô nhiễm nặng nề, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của mọi người.
    Vấn đề ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng đối với các đô thị lớn của chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Hầu như các thành phố đều quá tải , mật độ dân cư quá lớn mà các hạ tầng cơ sở lại thấp kém. Quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng không tuân thủ quy hoạch tổng thể đã phá vỡ môi trường sinh thái và môi trường thẩm mỹ. Các chất thải đô thị và chất thải công nghiệp không được sử lý đã đặc biệt làm ô nhiễm không khí và nguồn nước sinh hoạt…Tất cả những vấn đề gay gắt này đang thách thức sự phát triển các đô thị chúng ta .
   Như thế , trong giai đoạn hiện nay những vấn đề  môi trường sinh sống của con người- cả tự nhiên và xã hội- đang đặt ra hết sức gay gắt đối với sự phát triển của xã hội ta. Kinh tế sẽ không thể tăng trưởng với tốc độ cao, xã hội sẽ không phát triển nếu các tệ nạn xã hội làm cho các đời sống xã hội trở nên rối loạn , bất ổn , không kiểm soát nổi, nếu môi trường tự nhiên bị ô nhiễm và sự cân bằng sinh thái ở tầm vi mô và vĩ mô bị phá vỡ.
   Vấn đề môi trường sinh sống có tác động tới sinh mệnh của từng con người cụ thể, tưng gia đình cụ thể .Thế nhưng để giải quyết được vấn đề này đòi hỏi vấn đề phả được chú ý ở tầng vĩ mô. Bởi lẽ, mỗi con người chỉ quan tâm đến lợi ích thiết thân của mình. Trong giai đoạn hiện nay, do thúc ép của đời sống thường nhật mà họ chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất trước mắt của bản thân và gia đình. ở đây không thể quy kết đó là sự ích kỷ hay thiên tính của con người mà nên xem là một sự quy luật, một tất yếu kinh tế của cả giai đoạn lịch sử hiện tại  buộc các cá nhân phải suy nghĩ và hành động như vậy.
  Rõ ràng, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề môi trường sống gắn bó hết sức chặt chẽ với khía cạnh lợi ích kinh tế. Trong khi đó, lợi ích kinh tế đang là mối quan tâm hàng đầu của từng cá nhân riêng lẻ cũng như của cả xã hội nước ta . Bài toán đặt ra là, làm thế nào để vừa đạt được những lợi ích kinh tế , lại vừa bảo đảm được môi trường sinh sống trong sạch và lành mạnh .
  Hẳn là bài toán trước hết phải được giải quyết ở tầm vĩ mô. Và , dĩ nhiên, không phải chỉ quy giản ở vấn đề lợi ích kinh tế của cá nhân  và các nhóm người , mà cần đặt nó trong các quan hệ rộng lớn hơn.       Đó là không chỉ dừng lại ở tầm chiến lược phát triển kinh tế chiến lược xã hội mà hơn thế cần phải có những cơ chế thực thi và kiểm soát thực hiện cụ thể các chiến lược đó như thế nào. Dĩ nhiên, cơ chế đó cần thể hiện một cách trung thành , nhất quán tính thống nhất và đồng bộ của chiến lược, sao cho sự triển khai chiến lược và đường lối tạo lập được sự phát triển hài hoà giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích trứơc mắt va lợi ích lâu dài.
  Tóm lại, trong quá trình tăng tốc sự phát triển hiện nay một vấn đề mang tính nguyên tắc là phải quản lý một cách sát sao và không ngừng điều tiết để tạo lập được các mối quan hệ thống nhất và hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa con người và tự nhiên.
 Có tạo lập được sự hài hoà và thống nhất hai mối quan hệ nêu trên , chúng ta mới thực sự đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển toàn diện và bền vững. Có như thế chúng ta mới từng bước thực hiện được lý tưởng tốt đẹp của Đảng và nhân dân ta, đó là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/loi-ich-kinh-te-va-cac-hinh-thuc-phan-phoi-thu-nhap-o-viet-nam-hien-nay.html

CHƯƠNG 2
Các hình thức phân phối thu nhập ở
Việt Nam

Lý luận về phân phối có vị trí quan trọng trong kinh tế chính trị.Nó là vấn đề rộng lớn ,liên quan đến các hoạt động kinh tế,văn hoá,xã hội…của nhà nước và nhân dân lao động.Phần này không trình bày toàn bộ vấn đề chi phối mà chỉ bàn về phân phối thu nhập quốc dân ,hình thành thu nhập của các tầng lớp dân cư.Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề vô cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển ,ổn định tình hình kinh tế-xã hội ,nâng cao đời sống nhân dân,thực hiện mục tiêu dân giàu ,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ ,văn minh.
2.1.BẢN CHẤT VÀ VỊ TRÍ CỦA PHÂN PHỐI:
2.1.1.Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội
Quá trình táI sản xuất xã hội,theo nghĩa rộng,gồm 4 khâu:
     + Sản xuất
    +Phân phối
    +Trao đổi
    +Tiêu dùng
Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,trong đó khâu sản xuất là khâu cơ bản đóng vai trò quyết định; các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất, nhưng chúng có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng tới nhau.Trong quá trình tái sản xuất xã hội, phân phối và trao đổi là các khâu trung gian nối sản xuất và tiêu dùng, vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất,vừa phục vụ tiêu dùng.
 Phân phối bao gồm:
    Phân phối cho tiêu dùng sản xuất (sự phân phối cho tư liệu sản xuất, sức lao động của xã hội vào các ngành sản xuất) là tiền đề ,đIều kiện và là một yếu tố sản xuất , nó quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản xuất,phân phối thu nhập quốc dân hình thành của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
   Phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy là sản vật của sản xuất, song sự phân phối có ảnh hưởng không nhỏ đối với sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất . Ph.Angghen viết:" Phân phối không phải chỉ đơn thuần là kết quả thụ động của sản xuất và trao đổi: nó cũng có tác động trở lại sản xuất và trao đổi." Nó cũng có liên quan mật thiết  với việc ổn định tình hình kinh tế- xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Như vậy,phân phối là phân phối tổng sản phẩm xã hội và phân phối thu nhập quốc dân và nó được thực hiện dươí các hình thái:
   + Phân phối hiện vật
   + Phân phối dưới hình thái giá trị
   +Phân phối qua quan hệ tài chính
   + Phân phối qua quan hệ tín dụng
………….

2.1. 2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất:
 C.Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất :"quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản  xuất ấy,rằng chúng cấu thành mặt sau của quan hệ sản xuất ấy". Xét về quan hệ giữa người với người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định.Vì vậy, mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế nào  thì quan hệ phân phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối  là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau.Sự biến đổi lịch sử của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan hệ phân phối.Quan hệ phân phối có tác dụng trở lại đối với quan hệ sở hữu và do đó đối với sản xuất:  có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu, hoặc cũng có thể làm biến dạng tính chất của quan hệ sở hữu. Các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất ,vừa có tính lịch sử . Tính  đồng nhất thể hiện ở chỗ,trong bất cứ xã hội nào,sản phẩm lao động cũng được phân chia thành:
   + Một bộ phận cho tiêu dùng sản xuất
   + Một bộ phận để dự trữ
   + Một bộ phận cho tiêu dùng chung của xã hội
   + Một bộ phận cho tiêu dùng của cá nhân
Tính lịch sử của quan hệ phân phối là mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng phù hợp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội đó,nghĩa là quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và cũng như quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối có tính chất lịch sử. C.Mác viết"Quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của một quan hệ sản xuất lịch sử nhất định." Do đó,mỗi hình thái phân phối đều biến đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với các hình thái phân phối ấy.Chỉ thay đổi được quan hệ phân phối khi đã cách mạng hoá được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy.Phân phối có quan hệ rất lớn đối với sản xuất nền nhà nước cách mạng cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng chế độ mới,để phát triển kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa
2.2.Các hình thái phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.2.1 Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối  thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
 Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và từ đặc đIểm kinh tế_ xã hội nước ta,trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập.Đó là vì:
    Thứ nhất,nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần,có nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
  Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thức kinh doanh khác nhau.
  Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế này, có nhiều chủ thể sản xuất ,kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế  tham  gia. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức tổ chức sản xuất- kinh doanh khác nhau.Ngay trong mỗi thời kỳ, kể cả thành phần kinh tế nhà nước cũgn có các phương thức kinh doanh khác nhau, do đó, kết quả và thu nhập là khác nhau.
    Hơn nữa,trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các chủ thể sản xuất, kinh doanh tham gia vào nền kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu của cải, tiền vốn, trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường, thậm chí khác nhau cả may mắn… Do đó, khác nhau về thu nhập.
   Vì vậy , không thể có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái lại có nhiều hình thức khác nhau.
2.2.2.Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định và Đại hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định đIều đó:"Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào  kết quả sản xuất- kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội ".
    a.Phân phối theo lao động:
 Phân phối theo lao động  là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà  nước) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần góp vốn của các thành viên bằng nhau ( kinh tế hợp tác). Các thành phần kinh tế này đều dựa trên chế độ khác nhau. Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất ,nên tất yếu cũng làm chủ phân phối thu nhập.Vì vậy,phân phối phải vì lợi ích của người lao động.
 Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản,tức là chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu và cũng không thể phân phôí bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động.
 Tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc  thành phần kinh  tế dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất là vì:
_ Lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu.Vì phân phối do sản xuất quyết định, cho nên C.mác đã viết:" Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định"
_ Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có sự cống hiến khác nhau, do đó phải căn cứ vào lao động  đã cống hiến cho xã hội của mỗi người để phân phối.
_Lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm sống, là nghĩa vụ và quyền lợi ,hơn nữa còn những tàn dư ý thức, tư tưởng của xã hội cũ để lại như : coi khinh lao động ,ngại lao động chân tay, chây lười, thích làm ít hưởng nhiều,so bì giữa cống hiến và hưởng thụ…
   Trong những điều kiện đó , phải phân phối theo lao động để khuyến khích người chăm, người giỏi, giáo dục kẻ lười, người xấu, gắn sự hưởng thụ của mỗi người với sự cống hiến của họ. Đây cũng là hình thức nhằm khắc phục những tàn dư tư tưởng của xã hội cũ, không chỉ trong thời kỳ quá độ mà cả khi  chủ nghĩa xã hội đã được xác lập, phân phối theo lao động vẫn là hình thức phân phối chủ yếu
   Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của từng người đã đóng góp cho xã hội. Theo quy luật này, người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không hưởng; lao động có kỹ thuật cao, lao động ở những ngành nghề độc hại trong những điều kiện khó khăn đều được hưởng phần thu nhập thích đáng.
 Căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là:
 _Số lượng lao động được đo bằng thời gian lao động hoặc số lượng của sản phẩm làm ra.
_ Trình độ thành thạo lao động và chất lượng thành phẩm làm ra
_ Điều kiện và môi trường lao động:
    + Lao động nặng nhọc
   + Lao động trong hầm mỏ
   + Lao động ở những vùng có nhiều khó khăn,x a xôi hẻo lánh như miền núi ,hải đảo ,…
_ Tính chất của lao động
_ Các ngành nghề được khuyến khích
   Phân phối theo lao động được thực hiện qua những hình thức cụ thể như:
 _ Tiền công trong các đơn vị sản xuất_ Kinh doanh
_ Tiền thưởng
_ Tiền phụ cấp
_ Tiền lương trong các cơ quan hành chính sự nghiệp
  Phân phối theo lao động có tác dụng:
_ Thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm,thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, xây dựng tinh thần và thái độ lao động đúng đắn, khắc phục những tàn dư tư tưởng cũ, củng cố kỷ luật lao động
_ Thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp,trình độ văn hoá, ổn định lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao động xã hội
_ Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hoá của người lao động ,vừa đảm bảo tái sản xuất, sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện của người lao động phát triển toàn diện.
  Phân phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với các hình thức phân phối đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội của sự phân phối đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liêụ sản xuất.
 Tuy vây, theo C.Mác, phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là sự bình đẳng trong khuôn khổ:" Pháp quyền tư sản", tức là sự bình đẳng trong xã hội sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc trao đổi hoàn toàn ngang giá. Sự bình đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung cấp; sự bình đẳng đó còn thiếu sót là" với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia"
  Phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn chế không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ khi nào cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân , năng suất của họ càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào thì khi đó người ta mới có thể vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể thực hiện phân phối theo nhu cầu . Chỉ khi đó mới có sự bình đẳng thực sự.
b. Các hình thức phân phối khác:
   Ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất- kinh doanh. Do đó , ngoài hình thức phân phối theo lao động, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại các hình thức phân phối thu nhập khác.Đó là:
_ Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo vốn và phân phối theo lao động.
_ Trong thành phần kinh tế  cá thể ,tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất, vốn đầu tư sản xuất và tài năng sản xuất, kinh doanh của chính những người lao động
_ Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước, việc phân phối ở đây dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần, sở hữu sức lao động, sở hữu tư bản…
c. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội:
   Để nâng cao mức sống về vật chất và  văn hoá của nhân dân đặc biệt là các tầng lớp nhân dân lao động, sự phân phối thu nhập của mọi thành viên ,xã hội còn được thực hiện thông qua quỹ phúc lợi, tập thể và xã hội. Sự phân phối này có ý nghĩa hết sự quan trọng vì nó góp phần :
_ Phát huy tính tích cực lao động của mọi thành viên trong xã hội
_ Nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng.
_ Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới
_ Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng, song quỹ đó chỉ có ý nghĩa tích cực khi được quy định và sử dụng một cách hợp lý phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan.
Tính hợp lý của quỹ phúc  lợi tập thể và xã hội được biểu hiện như sau:
_Quỹ phúc lợi tập thể, xã hội không thể mở rộng quá khả năng của nền kinh tế cho phép.
_ Tốc độ tăng trưởng thu nhập trực tiếp của cá nhân trong cộng đồng phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể và xã hội.
_ Trong giới hạn đã xác định, cần sử dụng có hiệu qủa, tiết kiệm ,hợp lý các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Việc sử dụng phải nhằm mục đích thiết thực, tránh lãng phí xa hoa, phô trương hình thức. Vì các quỹ này có quan hệ với lợi ích thiết thân của mỗi thành viên tập thể cộng đồng, cho nên cần phát huy đầy đủ dân chủ, trưng cầu ý kiến của quảng đại quần chúng, sao cho mỗi loại phúc lợi đều có thích hợp với nhu cầu bức thiết của quần chúng, phát huy được tác dụng vốn có của nó.
_ Quỹ phúc lợi xã hội là chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia đóng góp .
d.  Phân phối theo vốn và tài sản:
    Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một hình thức phân phối nhất định. Nếu thành phần kinh tế quốc doanh tập thể phân phối theo lao động, thì các thành phần kinh tế khác lại có những hình thức phân phối khác, rất đa dạng, rất khác nhau. Tuy nhiên, điều đó không làm mất tính định hướng xã hội chủ nghĩa bởi chúng ta đảm bảo nguyên tắc lấy phân phối theo lao động làm chính nhưng đồng thời sử dụng các hình thức phân phối khác, miễn là nó phù hợp với tình trạng nền kinh tế của đất nước và thực hiện nó có tác dụng tốt cho sự phát triển kinh tế xã hội cũng như phù hợp với lợi ích người lao động; người lao động bằng lòng chấp nhận nó.
    Điều này thể hiện ở hình thức phân phối theo tài sản, vốn, những đóng góp khác...
  Đây là hình thức phân phối thích hợp với điều kiện của đất nước ta trong giai đoạn quá độ. Vì do đặc điểm nước ta trong thời kỳ này là đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ. Tình trạng thiếu vốn, phân tán vốn là phổ biến. Quá trình sản xuất, tích tụ, tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn lại nằm trong tay người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ...
  Để sử dụng nguồn vốn này, chúng ta không thể sử dụng cách chính sách áp đặt như trưng thu, đóng góp cổ phần một cách bình quân. Những biện pháp đó chỉ làm suy yếu lực lượng sản xuất xã hội.
Do đó, từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI), ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn dưới những hình thức như vay vốn, góp cổ phần không hạn chế, trả mức lãi hợp lý... Cách làm như vậy đã không những góp phần tăng lượng vốn vào quá trình chu chuyển mà khu vực kinh tế quốc doanh lại được sử dụng nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Đồng thời, mặc dù vốn của tư nhân nhưng sử dụng đã mang tính xã hội. Với quan điểm đổi mới này, chúng ta chấp nhận việc phân phối kết quả của sản xuất kinh doanh dưới hình thức "lợi tức" và "lợi nhuận", và pháp luật bảo vệ những thu nhập hợp pháp đó.
2.3.Từng bước thực hiện công bằng xã hôi trong phân phối thu nhập
 Chủ nghĩa xã hội phát triển mới có điều kiện để thực hiện một bước cơ bản  về công bằng xã hội trong phân phối thu nhập.
  Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đảng và nhà nớc ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vẫn tồn tại bất bình đẳng về phân phối thu nhập . Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tạo ra những tiền đề , những biện pháp để từng bước thu hẹp và xoá bỏ sự bất bình đẳng đó, tiến tới một xã hội" không có chế độ người bóc lột người, một xã hôi bình đẳng nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, ai không làm thì không hưởng"
 Để đạt mục tiêu này,từ thực tiễn nước ta cần phải thực hiện:
2.3.1.Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
    Bởi như Ph.Anghen , phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được phân phối
2.3.2 Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công ,tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân và thu nhập bất hợp lý, bất chính
      Để từng bước thực hiện phân phối công bằng hợp lý ,cần có chính sách phân phối bảo đảm thu nhập của những người lao động có thể tái sản xuất sức lao động.Gắn chặt tiền công , tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu qủa sẽ đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề .Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính, cần phải tiền tệ hoá tiền lương và thu nhập, xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối.
2..3.3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về mức thu nhập
 Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta một mặt phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể , cá nhân là khách quan; mặt khác, nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá đáng để không dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập, bằng cách điều tiết thu nhập và các giải pháp quản lý.
   Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trường nói chung, ngay cả trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải điều tiết thu nhập nhằm duy trì sự ổn định xã hội. ở nứơc ta việc điều tiết thu nhập càng quan trọng, nhằm hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập để không dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập.
    Điều tiết thu nhập được thực hiện thông qua hình thức :
_Điều tiết giảm thu nhập thông qua hình thức thuế thu nhập và hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi xã hội , từ thiện…
 Trong đó thuế thu nhập là hình thức quan trọng nhất chủ yếu nhất và điều tiết làm tăng thu nhập được thực hiện thông qua ngân sách nhà nước, ngân sách của các tổ chức chính trị- xã hội, các quỹ bảo hiểm qua giá, trợ cấp, phụ cấp các loại, tín dụng tiêu dùng và có thể một phần hiện vật cho một số đối tượng nhất định , qua các hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân. Những điều đó nhằm trợ giúp thường xuyên cho những người có thu nhập thấp, trợ giúp những người thất nghiệp, những người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro, những người thuộc diện chính sách xã hội , bổ xung thu nhập mang tính chất bình quân trong các tổ chức, trong các doanh nghiệp vao các dịp  lễ tết…
2.3.4. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
  Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu,nứơc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dân có giàu thì nước mới có thể mạnh, nước mạnh mới có khả năng thực hiện sự công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh. Vì vậy, phải phát huy nỗ lực làm giàu cho mọi công dân. Nhà nước không những khuyến khích mọi người làm giàu một cách hợp lý, hợp pháp mà còn tạo điều kiện, giúp đỡ bằng nhiều biện pháp.
  Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, Mọi công dân đều được tự do hành nghề , thuê mứơn nhân công theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm. Phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước .Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Tạo điều kiện cho mọi người lao động tự tạo, tìm kiếm việc làm.
Thực hiện xoá đói giảm nghèo , đền ơn đáp nghĩa bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Để từng bứơc đạt tới sự tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập, xuấtphát từ điều kiện cụ thể, nhiệm vụ trước mắt là phải thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo nhất là vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.


KẾT LUẬN
Ngày nay Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo con đường mà Đảng và nhà nước đã lựa chọn là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó lấy kinh tế nhà nước làm trung tâm cho mục tiêu phát triển. Chính vì tồn tại nhiều thành phần kinh tế nên lợi ích kinh tế của từng thành phần là không giống nhau. Nhưng bản thân mỗi thành phần kinh tế lại luôn muốn lợ ích cao nhất cho mình. Chính vì lễ đó bài nghiên cứu sẽ như một kim chỉ nam giúp cho những nhà hoạch định kinh tế của đất nước nói chung và các nhà doanh nghiệp nói riêng có thể tự tìm cho mình một hướng đi đúng đắn và phù hợp.
Bài nghiên cứu cũng nhấn mạnh cho người đọc hiểu được rằng: vấn đề cơ bản để đáp ứng được lợi ích kinh tế là cao nhất đó chính là khi mục đích, lý tưởng và hành động của các chủ thể kinh tế phảI nhất trí với nhau. Muốn vậy thì vấn đề trước mắt đặt ra cho các doanh nghiệp là phải đáp ứng được công bằng mong muốn của các chủ thể. Đó chính là phải quan tâm tới việc phân phối thu nhập phù hợp cho các đối tượng lao động khác nhau. Sao cho họ cảm thấy thoả đáng nhờ đó thúc đẩy được mong muốn và lòng say mê lao động, góp phần đạt lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế của đất nước nói chung.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Mạc dù quan hệ phân phối có sự đan xen giữa tính chất phân phối của các thành phần kinh tế nhưng trong đó tính chất phân phối của các thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Do nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nên tất yếu tồn tại nhiều quan hệ phân phối thu nhập. Ví như trong các doanh nghiệp nhà nước vốn và tài sản đều là của chung do vậy không thể lấy vốn và tài sản làm thước đo mà buộc phải lấy số lượng và chất lượng lao động làm cơ sở phân phối. Do đó hình thức phân phối thu nhập theo lao động. Cùng tồn tại tương ứng với quan hệ sở hữu tập thể, sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất thì. Với đặc trưng của nền kinh tế nhiều thanh phần thì hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng kéo theo hình thức phân phối thu nhập khác nữa cho Việt Nam. Đó là phân phối theo vốn, tài sản và các nguồn lực khác. Đặc biệt là trong giai đoạn ngày nay khi bước đầu hình thành các công ty cổ phần tại nước ta thì hình thức nay càng thể hiện rõ nét thông qua lợi tức cổ phần mà các cổ đông nhận được tương ứng từ số vốn mà các cá nhân trong hội đồng quản trị bỏ ra đẻ mua cổ phiếu. Không chỉ dừng lại ở việc góp chung vồn kinh doanh mà từng bước đã hình thành rất nhiều các loại góp vốn khác nhau như góp tư liệu sản xuất, đầu tư yếu tố sản xuất, máy móc, nhà xưởng và các nguồn lực khác. Cùng với các hình thức phân phối thu nhập như đã nêu thì ở Việt Nam ta còn tồn tại phân phối thông qua phúc lợi tập thể và xã hội. Mỗi hình thức phân phối lại tỏ ra có một ưu thế nhất định, một khả năng riêng. Nhưng tất cả đếu hướng tới mục đích công bằng xã hội, dân chủ văn minh. Vì thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức sinh viên năm đầu còn hạn chế. Nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự góp ý và nhận xét từ phía các thầy các cô cũng như các bạn sinh viên để bài viết có thể hoàn chỉnh và có khả năng thực tiễn cao. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy Cần đã giúp đỡ em trong việc hoàn thành bài viết này.
A.PHẦN MỞ ĐẦU:………………………………………….2
B.NỘI DUNG:
 CHƯƠNG 1: Lý luận cơ bản về lợi ích Kinh tế
  1.1.Bản chất đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế………………..3
1.1.1. Lợi ích kinh tế……………………………………………3
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế………………………………..4
1.2.Các cơ cấu kinh tế trong các thành phần kinh tế ở nước ta….5
1.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề phát triển cộng đồng trong giai đoạn phát triển hiện nay…………………………………………… ..11
   1.3.1. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá xã hội…12
   1.3.2. Lợi ích kinh tế và các vấn đề chính sách xã hội……….13
   1.3.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề môi trường sống…………….15
CHƯƠNG 2:
Các hình thức phân phối  thu nhập  ở Việt Nam…
2.1.Bản chất và vai trò của phân phối…………………………….20
  2.1.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất………..20
  2.1.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất……………...21
2. 2. Các hình thái phân phối thu nhập ………………………….23
  2.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối………………………………………………………………23
 2.2.2. Các hình thức phân phối thu nhập ……………………….24
a. Phân phối theo lao động…………………………………..24
b. Các hình thức phân phối khác nhau………………………27
c. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể ,phúc lợi xã hội……28
d. Phân phối theo vốn và tài sản…………………………….29
2.3. Từng bước thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập…30
 2.3.1. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất…………………..30
 2.3.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân ,thu nhập bất hợp lý bất chính……………..31
 2.3.3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập………………………………………………………31
 2.3.4. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo…………………………………………………………….32
C.KẾT LUẬN…………………………………………………..34
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..35
 http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/loi-ich-kinh-te-va-cac-hinh-thuc-phan-phoi-thu-nhap-o-viet-nam-hien-nay.html


1.Báo Tiền Phong số 22(ngày 27/8/2001)
2.Báo Tiền Phong số63(ngày 28/3/2002 )
3.Báo Pháp Luật số 158(ngày 27/8/2001) 
4.Hiến Pháp 1980
5.Luật Đất Đai

6.Giáo Trình Kinh tế chính trị _NXB Chính Trị Quốc Gia

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét