I - LỜI NÓI ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề cơ bản và lớn trong kinh tế vĩ mô.
Sự tác động qua lại của tăng trưởng kinh tế và lạm phát hết sức phức tạp và
không phải lúc nào cũng tuân theo những qui tắc kinh tế . Lạm phát là một vấn đề
không phải xa lạ và là một đặc diểm của nền kinh tế hàng hoá và ở mỗi thời kì
kinh tế với các mức tăng trưởng kinh té khác nhau sẽ có những mức lạm phát phù
hợp. Do vậy vấn đề lạm phát và ảnh hưởng của lạm phát tới tăng trưởng kinh
tế
là
một đề tài rất hấp dẫn, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình
hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay vấn đề này càng trở nên cần thiết. Việc
xác định mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đã và đang thu hút sự chú ý
của nhiều nhà kinh tế. Mục đích chính là phân tích để khẳng định và tiến tới xác
lập mối quan hệ định hướng giữa tăng trưởng kinh tế với lạm phát và có thể sử
dụng lạm phát là một trong các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thì đương nhiên các giải pháp điều hành vĩ mô đưa ra là nhằm nâng
cao lạm phát của nền kinh tế nếu như chúng có quan hệ thuận với nhau và do vậy
các giải pháp như cung ứng tiền, phá giá đồng nội tệ… sẽ được xem xét ở mức độ
hợp lý. Còn không, các nhà hoạch định chính sách phải cân nhắc các giải pháp vĩ
mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và yếu tố lạm phát trở thành thứ yếu. Mặc dù
vẫn phải duy trì mức độ kiểm soát. Ở nước ta trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới
sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề lạm phát không những là một tiêu thức kinh tế mà
còn kiến mang ý nghĩa chính trị nữa. Emhttp://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/lam-phat-va-tang-truong-kinh-te.html
II
- NỘI DUNG
CHƯƠNG
I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
I. Khái niệm
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát và mỗi quan điểm đều có sự chắc
chắn về luận điểm và những lý luận của
mình.
Theo
L.V.chandeler, D.C cliner với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng định :lạm
phát là sự tăng giá hàng bất kể dài hạn hay ngắn hạn , chu kỳ hay đột
xuất.
G.G.
Mtrukhin lại cho rằng : Trong đời sống, tổng mức giá cả tăng trước hết thông qua
việc tăng giá không đồng đều ở từng nhóm hàng hoá và rút cuộc dẫn tới việc tăng
giá cả nói chung. Với ý nghĩa như vậy có thể xem sự mất giá của đồng tiền là lạm
phát. Ông cũng chỉ rõ: lạm phát, đó là hình thức tràn trề tư bản một cách tiềm
tàng ( tự phát hoặc có dụng ý) là sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân thông qua giá cả giữa các khu vực của quá trình tái sản xuất xã hội,
các ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã
hội.
Ở
mức bao quát hơn P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn “Kinh tế học” đã được
dịch ra tiếng việt, xuất bản năm 1989 cho rằng lạm phát xẩy ra khi mức chung của
giá cả chi phí tăng
lên.
Với
luận thuyết “Lạm phát lưu thông tiền tệ “ J.Bondin và M. Friendman lại cho rằng
lạm phát là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng lên.
M.Friedman nói “ lạm phát ở mọi lúc moị nơi đều là hiện tượng của lưu thông tiền
tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền trong lưu
thông tăng lên nhanh hơn so với sản
xuất”
Như
vậy, tất cả những luận thuyết, những quan điểm về lạm phát đã nêu trên đều đưa
ra những biểu hiện ở một mặt nào đó của lạm phát, và theo quan điểm của tôi về
vấn đề này sau khi nghiên cứu một số luận thuyết ở trên thì nhận thấy ở một khía
cạnh nào đó của lạm phát thì: khi mà lượng tiền đi vào lưu thông vượt mức cho
phép thì nó dẫn đến lạm phát, đồng tiền bị mất giá so với tất cả các loại hàng
hoá khác.
2. Khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện
đại
Trong
điều kiện hiện đại khi mà nền kinh tế của một nước luôn được gắn liền với nền
kinh tế thế giới thì biểu hiện của lạm phát được thể hiện qua một số yếu tố
mới.
a.
Sự mất giá của các loai chứng khoán có
giá.
Song
song với sự tăng giá cả của các loai hàng hoá, giá trị các loại chứng khoán có
giá trị bị sụt giảm nghiêm trọng, Vì việc mua tín phiếu là nhằm để thu các khoản
lợi khi đáo hạn. Nhưng vì giá trị của đồng tiền sụt giảm nghiêm trọng nên người
ta không thích tích luỹ tiền theo hình thức mua tín phiếu nữa. Người ta tích trữ
vàng và ngoại
tệ.
b. Sự giảm giá của đồng tiền so với ngoại tệ và
vàng.
Trong
điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế, vàng và ngoại tệ mạnh được coi như là tiền
chuẩn để đo lường sự mất giá của tiền quốc gia. Đồng tiền càng giảm giá so với
vàng và USD bao nhiêu nó lại tác động nâng giá hàng hoá lên cao bấy nhiêu. Ở đâu
người ta bán hàng dựa trên cơ sở “qui đổi” giá vàng hoặc ngoại tệ mạnh để bán mà
không căn cứ vào tiền quốc gia nữa (tiền giấy do Ngân hàng Nhà nước phát
hành)
c. Lạm phát còn thể hiện ở chỗ khối lượng tiền ghi sổ tăng vọt nhanh
chóng.
Bên
cạnh khối lượng tiền giấy phát ra trong lưu thông. Nhưng điều cần chú ý là khi
khối lượng tiền ghi sổ tăng lên có nghĩa là khối lượng tín dụng tăng lên, nó có
tác động lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Như vậy lạm phát trong điều
kiện hiện đại còn có nghĩa là sự gia tăng các phương tiện chi trả trong đó có
khối lượng tín dụng ngắn hạn gia tăng
nhanh
d. Lạm phát trong điều kiện hiên đại còn là chính sách của
Nhà
nước
Nhằm
kích thích sản xuất, chống lại nạn thất nghiệp, bù đắp các chi phí thiếu hụt của
ngân sách.
3. Các Loại hình của lạm
phát
Cũng
như ở trên đã có rất nhiều cách hiểu ở các góc độ khác nhau về lạm phát thì ở
phần này cũng như vậy người ta có thể phân loại lạm phát theo nhiều tiêu chí
khác nhau.
Căn
cứ vào mức độ người ta chia lam ba
loại
- Lạm phát vừa phải :Loai
lạm phát này xẩy ra với mức tăng chậm của gía cả được giới hạn ở mức độ một con
số hàng năm (tức là > 10%). Trong điều kiện lạm phát thấp gía cả tương đối
thay đổi chậm và được coi như là ổn
đị
- Lạm phát phi mã :Mức
độ tăng của gía cả đã ở hai con số trở lên hàng năm trở lên. Lạm phát phi mã gây
tác hại nghiêm trọng trong nền kinh tế. Đồng tiền mất giá một cách nhanh
chóng-lãi suất thực tế giảm xuống dưới 0 (có nơi lãi suất thực tế giảm xuống tới
50-100/năm), nhân dân tránh giữ tiền
mặt.
- Siêu lạm phát:Tiền giấy
được phát hành ào ạt, gía cả tăng lên với tốc độ chóng mặt trên 1000 lần/năm.
Siêu lạm phát là thời kì mà tốc độ tăng giá vượt xa mức lạm phát phi mã và vô
cùng không ổn
định.
Căn cứ vào nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát người ta phân
biệt
- Lạm phát để bù đắp các thiếu hụt của ngân sách: Đây
là nguyên nhân thông thường nhất do sự thiếu hụt ngân sách chi tiêu của Nhà nước
(y tế, giáo dục, quốc phòng) và do nhu cầu khuếch trương nền kinh tế. Nhà nước
của một quốc gia chủ trương phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các
chi phí nói trên đang thiếu
hụt.
Ở
đây chúng ta thấy vốn đầu tư và chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng phát
hành, kể cả tăng mức thuế nó sẽ đẩy nền kinh tế đi vào một thế mất cân đối vựợt
quá sản lượng tiềm năng của nó. Và khi tổng mức cần của nền kinh tế vượt quá khả
năng sản xuất của nền kinh tế (vì các yếu tố sản xuất của một nền kinh tế là có
giới hạn) lúc đó cầu của đồng tiền sẽ vượt quá khả năng cung ứng hàng hoá và
lạm phát sẽ xẩy ra, gía cả hàng hoá tăng lên nhanh
chóng.
-Lạm
phát do nguyên nhân chi phí : Trong điều
kiện cơ chế thị trường, không có quốc gia nào lại có thể duy trì được trong một
thời gian dài với công ăn viêc làm đầy đủ cho mọi người, gía cả ổn định và có
một thị trường hoàn toàn tự
do.
Trong
điều kiện hiện nay, xu hướng tăng gía cả các loại hàng hoá và tiền lương công
nhân luôn luôn diễn ra trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng công ăn
việc làm nhất định. Điều đó có nghĩa là chi phí sản xuất đã đẩy gía cả tăng lên
ngay cả trong các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, lạm phát xẩy
ra.
Lạm
phát như vậy có nguyên nhân là do sức đẩy của chi phí sản
xuất.
Một
số nhà kinh tế tư bản cho rằng việc đẩy chi phí tiền lương tăng lên là do công
đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác cho rằng chính công đoàn ở
nước tư bản đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm
phát và giữ không cho lạm phát giảm xuống quá nhanh khi nó giảm . Vì các hợp
đồng lương của các công đoàn thuờng là dài hạn và khó thay
đổi.
Ngoài
ra các cuộc khủng hoảng về các loai nguyên liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép...đã
làm cho giá cả của nó tăng lên (vì hiếm đi) và điều đó đã đẩy chi phí sản xuất
tăng lên. Nói chung việc tăng chi phí sản xuất do nghiều nguyên nhân, ngay cả
việc tăng chi phí quản lý hành chính hay những chi phí ngoài sản xuất khác cũng
làm cho chi phí sản xuất tăng lên và do vậy nó đẩy gía cả tăng
lên.
Có
thể nói nguyên nhân ở đây là sản xuất không có hiệu quả, vốn bỏ ra nhiều hơn
nhưng sản phẩm thu lại không tăng lên hoặc tăng rất chậm so với tốc độ tăng của
chi phí.
- Lạm phát ỳ : Là
lạm phát chỉ tăng với một tỷ lệ không đổi hàng năm trong một thời gian dài. Ở
những nước có lạm phát ỳ xẩy ra, có nghĩa là nền kinh tế ở nước đó có một sự cân
bằng mong đợi, tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ được trông đợi và dược đưa vào các hợp
đồng và các thoả thuận không chính thức. Tỷ lệ lạm phát đó được Ngân hàng Trung
ương, chính sách tài chính của Nhà nước, giới tư bản và cả giới lao động thừa
nhận và phê chuẩn nó. Đó là một sự lạm phát nằm trong kết cấu biểu hiện một sự
cân bằng trung hoà và nó chỉ biến đổi khi có sự chấn động kinh tế xảy ra (tỷ lệ
ỳ tăng hoặc giảm). Nếu như không có sự chấn động nào về cung hoặc cầu thì lạm
phát có xu hướng tiếp tục theo tỷ lệ
cũ.
- Lạm phát cầu kéo :Lạm
phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc
vượt quá tiềm năng. Khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận thấy lượng
tiền không lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có
giới hạn của mức cung hàng hóa. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá
nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong
điều kiện thị trường lao động đã đạt cân
bằng.
Chính
sách tiền tệ lạm phát có thể xảy ra khi mục tiêu công ăn việc làm cao. Ngay khi
công ăn việc làm đẩy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại do những xung đột trên
thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp khi có công ăn việc làm đẩy đủ (tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên) sẽ lớn hơn 0. Nếu ấn định một chỉ tiêu thất nghiệp thấp
dưới tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ tạo ra một địa bàn cho một tỷ lệ tăng trưởng
tiền tệ cao hơn và lạm phát phát sinh.Như vậy theo đuổi một chỉ tiêu sản phẩm
quá cao hay tương đương là một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp là nguồn gốc sinh ra
chính sách tiền tệ lạm
phát.
- Lạm phát chi phí đẩy:
Ngay cả
khi sản lượng chưa đạt mức tiềm năng nhưng vẫn có thể xảy ra lạm phất ở nhiều
nước, kể cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện
tại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm
sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng gọi là “lạm phát đình
trệ”.
Các
cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản: xăng, dầu,
điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên
trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả lại tăng lên và sản lượng giảm
xuống. Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên
nhân như thiên tại, chiến tranh, biến động chính trị kinh
tế...
Lạm
phát chi phí cũng có thể là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc
đẩy một mức công ăn việc làm cao. Nó xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc
do việc các công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên
Căn
cứ vào quá trình bộc lộ hiện hình lạm phát người ta phân
biệt
-Lạm
phát ngầm đây là loại lạm phát đang ở giai đoạn ẩn náu, bị kiềm chế về t ốc độ
tăng giá.
-Lạm
phát công khai đây là loại lạm phát mà sự tăng giá cả hàng háo, dịch vụ rõ rệt
trên thị
trường.
4.
Những hậu quả của lạm
phát
Qua
thực tế của lạm phát ta thấy rằng hậu quả của nó để lại cho nền kinh tế là rất
trầm trọng, nó thể hiện về mọi mặt của nền kinh tế, đặc biệt là một số hậu quả
sau:
-
Xã hội không thể tính toán hiệu qủa hay điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của
mình một cách bình thường được do tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo
giá trị hay nói đúng hơn là thước đo này bị co giãn thất
thường.
-
Tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết nền kinh
tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa, các
biểu thuế không thể điều chỉnh
kịp với mức độ tăng bất ngờ của lạm phát và do vậy tác dụng điều chỉnh của thuế
bị hạn chế, ngay cả trường hợp nhà nước có thể chỉ số hoá luật thuế thích hợp
với mức lạm phát, thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng bị hạn
chế.
-
Phân phối lại thu nhập làm cho một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng
đột biến giầu lên nhanh chóng và những người có các hàng hoá mà giá cả của chúng
không tăng hoặc tăng chậm và người giữ tiền bị nghèo
đi.
-
Kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng bạc... gây ra
tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng
phí.
-
Xuyên tạc, bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các điều kiện của
thị trường bị biến dạng. hầu hết
các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá cả hàng hoá, giá cả tiền tệ, giá cả
lao động... một khi những giá cả này tăng hay giảm đột biến và liên tục , thì
các yếu tố của thị trường không thể tránh khỏi bị thổi phồng hoặc bóp
méo.
-
Sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có lợi nhuận
cao.
-
Ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày càng giảm về mặt
giá trị.
-
Đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình rhường của ngân hàng bị phá
vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong xã
hội.
-
Đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng hoá tiêu dùng
và buộc nhân dân phải giảm khối lượng về hàng hoá tiêu dùng, đặc biệt là đời
sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. mặt khác lạm phát cũng làm thay
đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện tượng mọi người tìm
cách tháo chạy khỏi đồng tiền tức là không muốn giữ và cất giữ đồng tiền mất
giá bằng cách họ xẽ tìm mua bất kỳ hàng hoá dù không có nhu cầu để cất trữ từ
đó làm giầu cho những người đầu cơ tích
trữ.
Chính
vì các tác hại trên của lạm phát nên việc kiểm soát lạm phát và giữ lạm phát ở
mức độ vừa phải đã trở thành một trong những mục tiêu lớn của mọi nền kinh tế
hàng hoá. Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát không có nghĩa là phải đưa lạm
phát ở mức bằng không tức là nền kinh tế không có
lạm phát mà phải duy trì mức lạm phát ở một mức độ nào đó phù hợp vơí nền kinh
tế bởi vì lạm phát không phải hoàn toàn là tiêu cực, nếu như một quốc gia nào đó
có thể duy trì được mức lạm phát vừa phải và kiềm chế, có lợi cho sự phát triển
kinh tế thì ở quốc gia đó lạm phát không còn là mối nguy hại cho nền kinh tế nữa
mà nó đã trở thành một công cụ đắc lực giúp điều tiết và phát triển kinh tế một
cách hiệu quả
.
CHƯƠNG
II
LẠM
PHÁT VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG THỰC
TIỄN
KINH
TẾ Ở VIỆT
NAM.
1. Giai đoạn từ năm 1976
-1980:
Là giai đoạn được coi là không có lạm phát theo quan niệm
kinh tế chính trị phổ biến trong các nước xã hội chủ nghĩa đương thời và không
được phản ánh trong các thống kê chính thức .Tuy nhiên, trên thực tế ở việt nam
khi đó vẵn có lạm phát, thể hiện ỏ sự khan hiếm hàng hoá ,dịch vụ và sự giảm sút
của chúng, đồng thời được hi nhận trong sự diễn biến gia tăng giá bán lẻ hàng
hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị trường xã hội trên dưới 20% trên một năm và đó
là lạm phát của nền kinh tế kém phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ
chế , nơi độc quyền nhà nước còn mang đậm tính chất phi kinh tế và được dung
dưỡng bởi các chỉ thị của nhà nước và tồn tại thống trị phổ biến trong tất cả
các lĩnh vực. Vào thời kỳ này khu vực kinh tế nhà nước chiếm khoảng 85 - 87% vốn
cố định, 95% lao động lành nghề mà chỉ tạo ra 30 – 37% tổng sản phẩm xã hội.
Trong khi đó khu vực kinh tế tư nhân chỉ chiếm 13,2% sức lao động xã hội và suốt
thời kỳ dài trước năm 1986 bị nhiều sức ép kiềm chế , xong lại sản xuất ra tới
32 – 43% tổng sản phẩm xã hội và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất so với khu vực
kinh tế quốc doanh và hợp tác
xã.
Mặt
khác lạm phát ở việt nam diễn ra trong suốt nền kinh tế đóng cửa phụ thuộc nhiều
vào nguồn viện trợ bên ngoài.Trên thực tế , trước năm 1988không có đầu tư trực
tiếp của nước ngoàI vào Việt Nam. Các biên giới đều bị khép lại với chế độ xuất
nhập cảnh cũng như lưu thông hàng hoá rất nghiêm ngặt, phiền phức .Cơ cấu chủ
yếu có tính hướng nội ,khép kín ,thay thế hàng nhập khẩu và không khuyết khích
xuất khẩu . Cùng với chính sách định hướng phát triển và đầu tư có nhiều bất cập
, nên cơ cấu kinh tế việt nam bị mất cân đối và không hợp lý nghiêm trọng giữa
công nghiệp – nông nghiệp , công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, nhất là ngành
sản xuất hàng tiêu dùng , giữa sản xuất – dịch vụ .Đó là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ, tăng chi phí sản xuất, thiếu hụt ngân
sách chiền miên , tăng mức cung tiền không tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ
…và do đó gây ra lạm phát
.
2.
Giai đoạn 1981-1988
Là
thời kỳ từ năm 1981 đến năm 1988: là thời kỳ lạm phát chuyển từ dạng “ẩn” sang
dạng “mở”.Thực tế cho thấy rằng từ năm 1981 đến năm 1988 chỉ số tăng giá đều
trên 100% một năm . Vào năm 1983 và 1984 đã giãm xuống, nhưng năm 1986 đã tăng
vọt tới mức cao nhất là 557% sau đó có giảm. Nhu vậy mức lạm phát cao và không
ổn định . song vấn đề lạm phát chưa được thừa nhận trong các văn kiện chính
thức. Vấn đề này chỉ được quy vào sử lý các khía cạnh “giá - lương- tiền, mà lại
chủ yếu bằng các giải pháp hành chính ,như xem xét và đIều chỉnh đơn giản giá cả
trong khu vực thị trường có tổ chức những năm 1981,1983,1987,và”bù vào giá lương
“dổi tiền năm 1985…Đây là thời kì xuất hiện siêu lạm phát với 3 chữ số kéo dài
suốt 3 năm 1986-1988,và đạt đỉnh cao nhất trong lịch sử kinh tế hiện đại nước
ta suốt nửa thế kỉ
nay
3.
Giai đoạn
1988-1995
Liên
tục từ năm 1988, mọi nỗ lực của chính phủ được tập trung vào kiềm chế, đẩy lùi
lạm phát từ mức 3 chữ số xuống còn 1 chữ số. Đây là kết quả của
quá trình đổi mới và phát triển
kinh tế ở Việt Nam. Trong khi lạm phát được kéo xuống thì kinh tế vẫn tăng
trưởng cao và khá ổn định, bình quân hàng năm tăng 7 –
8%.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/lam-phat-va-tang-truong-kinh-te.html
Tăng
trưởng kinh tế và lạm phát (tỷ lệ
%)
|
Năm
|
1988
|
1989
|
1990
|
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
|
Tăng
trưởng
|
5,1
|
8,0
|
5,1
|
6,0
|
8,6
|
8,1
|
8,8
|
9,5
|
|
Lạm
phát
|
410,9
|
34,8
|
67,2
|
67,4
|
17,2
|
5,2
|
14,4
|
12,7
|
Công cuộc chống lạm phát ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào những vấn đề: Nối lỏng
cơ chế kiểm soát giá cả, phi tập trung hóa tiến trình ra các quyết định về kinh
tế, thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung cầu ngoại tệ, khuyến khích
xuất khẩu đồng thời thi hành một chính sách lãi suất thực dương, kết hợp thắt
chặt đúng mức việc cung ứng tiền trung ương. Các giải pháp lúc đầu được tiếp nối
với sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ tài chính đã nhanh chóng đem lại
nhiều thành quả đáng khích lệ trong điều kiện kiểm soát được lạm phát. Cụ
thể:
- Lòng tin của dân chúng vào đồng tiền Việt Nam đã từng bước được khôi phục.
Tiền tệ ổn định khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài tăng nhanh. Tích
lũy đầu tư của cả nước năm 1993 bằng 17,6% GDP, tăng đáng kể so với tỷ lệ tích
lũy 11 – 12% những năm
trước.
-
Ta có bảng số liệu
sau:
|
Năm
|
GDP/người
(Tr
đồng)
|
Tốc
độ tăng GDP
(%)
|
Tốc
độ tăng
tiêu
dùng
(%)
|
Tỷ
lệ tích lũy/GDP
(%)
|
Tỷ
lệ để dành/GDP
(%)
|
|
1989
1990
1991
1992
1993
|
95
98
109
131
163
|
8,0
5,1
6,0
8,6
8,1
|
8,1
8,3
3,6
5,4
4,4
|
11,6
12,6
15,0
17,6
20,5
|
7,2
-
-
6,9
15,0
|
Nguồn:
Tổng cục thống kê
1994
-
Trong tổng số tích lũy năm 1993, tích lũy Nhà nước chiếm 43%, đầu tư trực tiếp
nước ngoài 40%. Tỷ lệ đầu tư nước ngoài này tương đương tỷ lệ đầu tư nước ngoài
vào Singapo một nền kinh tế được coi là mở cửa rộng nhất ở Châu Á hiện
nay.
-
Tỷ lệ tiền để dành của cả nền kinh tế trên GDP năm 1992 là 6,9%, năm 1993 là 15%
GDP. Đây là một bước ngoặt lớn về tích lũy so với trước
đây.
-
Năm 1989, khi các cơ sở sản xuất nông nghiệp được phi tập trung hóa và giá nông
sản được thả nổi, cùng với tác động của các yếu tố khác, chỉ trong vòng 1 năm
Việt Nam đã từ chỗ phải nhập khẩu gạo đã trở thành một nước xuất khẩu gạo, thu
nhập của nông dân tăng
lên.
Mức
độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong năm qua có được là nhờ kinh tế tăng
trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi và bị khống chế ở mức hợp lý. Điều này
trái ngược hẳn với một số quốc gia khi chống lạm phát thường làm kinh tế suy
thoái.
Bên
cạnh những thành tựu đạt được cũng nảy sinh nhiều khó khăn
mới:
Lạm
phát giảm trong điều kiện nhập siêu vốn nước ngoài (chủ yếu là vay nợ) đã làm
cho đồng tiền Việt Nam có xu hướng lên giá so với một số đồng tiền khác, ảnh
hưởng bất lợi đến việc khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài trong khi đó sản xuất trong nước bị chèn ép, cạnh tranh mảnh
bời hàng nhập đặc biệt là hàng nhập lậu. Năm 1992 tỷ lệ hàng tích lũy phải nhập
lên tới 63,7%, tỷ lệ sản phẩm trung gian dùng trong sản xuất phải nhập lên tới
25%. Cán cân thương mại do đó tiếp tục thâm hụt trong điều kiện đó việc tăng
trưởng kinh tế cao hơn sẽ kích thích lạm phát gia tăng, gây khó khăn cho việc
duy trì thành quả đạt được.Năm 1994, mức lạm phát do quốc hội thông qua là 10%
nhưng do một số nguyên nhân khách quan như giá cả thị trường thế giới tăng ảnh
hưởng đến trong nước, thiên tai, bội chi ngân sách... đã khiến lạm phát vượt mức
dự kiến 14,4%. Mức lạm phát năm 1994 tuy không đạt kế hoạch nhưng có yếu tố có
thể chấp nhận được. Nhiều nhà kinh tế cho rằng cần phải xác lập một tỷ lệ nhất
định giữa tăng trưởng và lạm phát. Có ý kiến cho rằng phải kiềm chế lạm phát
thấp, ổn định giá cả để phát triển kinh tế dù ở nhịp độ thấp nhưng ổn định lâu
dài (các nước nhân NICS). Ngược lại có ý kiến lại cho rằng khuyến khích lạm phát
mới tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên nền kinh tế Việt
Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và xuất phát điểm rất thấp so với các
nước khác nên để tránh khỏi tụt hậu, kinh tế Việt Nam phải đạt tốc độ tăng
trưởng cao trong nhiều năm. Muốn vậy, Việt Nam có thể phải duy trì tỷ lệ lạm
phát vài năm đầu cao hơn mức tăng trưởng trong nước một chút, kéo dần xuống
những năm sau. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thả nổi hoàn
toàn lạm
phát.
4. Giai đoạn
1996-1999:
Tốc
độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1991-1995 là 8,2% và có khả năng tiếp
tục tăng mạnh khi năm 1995 đạt tỷ lệ tăng trưởng 9,5% đã khiến các nhà hoạch
định chính sách nghĩ đến việc phải kiềm chế tốc độ tăng trưởng cao quá đáng và
đề ra những giải pháp cấp bách để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên từ năm 1996, cụ
thể hơn từ 1997, xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như
mức lạm phát của Việt Nam đã liên tục giảm. Đáng lưu ý là đã có mầm mống xuất
hiện hiện tượng giảm phát thông qua chỉ số giá âm ở một vài tháng trong các năm
1996, 1997 và 1999. Tuy nhiên xét về chung và dài hạn, tuy tốc độ tăng trưởng có
giảm sút song nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu ở xu hướng lạm phát với mức độ vừa
phải, bình quân 6%/năm kể từ
1995-1999.
KẾT
LUẬN
Lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ, phức tạp.
Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế ngược lại cũng có thể là tác nhân
kìm hãm sự phát triển kinh tế thậm chí . Vì vậy cần chú trọng sự cân đối, mối
quan hệ hài hoà giữa hai vấn đề này ,chỉ có vậy mới đảm bảo sự phát triển bền
vững của Viêt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Trong những năm vừa qua Việt
Nam đã đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế đó cũng là nhờ một phần
đóng góp của các chính sách điều chỉnh tỉ lệ lạm phát hợp lí. Tuy nhiên những
bất ổn sự mất cân đối giữa lạm phát trong một số thời gian là dấu hiệu để chúng
ta cần điều chỉnh và đưa ra những chính sách có hiệu quả. Hiểu rõ và giải quyết
được tốt vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát triển
kinh tế ở nước
ta.
TÀI
LIỆU THAM
KHẢO
1.
Lý thuyết lạm phát, giảm phát và thực tiễn ở Việt
Nam.
Tập
thể tác giả:PTS:Nguyễn Minh Phong,TS:Võ Đại Lược,TS:Nguyễn Thị Hiền, Và một
số tác giả
khác.
2.
Giáo trình KTVM –
DHKTQD
Giáo
trình Lý Thuyết Tài chính Tiền
Tệ
3.
Tạp chí Thông tin kinh
tế
4.
Tạp chí Thông tin tài
chính
5.
Tạp chí Phát triển kinh
tế
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/lam-phat-va-tang-truong-kinh-te.html
PHỤ
LỤC
Trang
LỜI
NÓI ĐẦU
2
Chương
I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM
PHÁT
1.
Khái
niệm
2
2.
Khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện
đại
3
3.
Các Loại hình của lạm
phát
4
4.
Những hậu quả của lạm phát
8
Chương
II: LẠM
PHÁT VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG THỰC
TIỄN
KINH
TẾ Ở VIỆT
NAM
10
1.Giai
đoạn từ năm 1976 –1981
10
2.Giai
đoạn
1981-1988
11
3.
Giai đoạn 1988-1995
11
4.
Giai đoạn
1996-1999
14
KẾT
LUẬN
15
Tài
liệu tham
khảo
16
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét