A. LỜI
MỞ ĐẦU
I.
Kinh
tế Việt
Nam
1.
Kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế
Hiện nay vấn đề phát triển kinh tế là một vấn đề rất cần thiết , tất yếu đối với
mọi quốc gia. Nhưng ở mỗi nước khác nhau thì đi bằng các con đường khác nhau do
dựa vào các tiềm lực của chính mình . Đối với Việt Nam , từ khi xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường thì Đảng và nhà nước ta đã
xác định rằng : phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một tất yếu để phát
triển nền kinh tế . Do nước ta có xuất phát thấp và đi lên từ một nước nông
nghiệp lạc hậu , người dân có trình độ kĩ thuật thấp do đó phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là thực tiễn khách quan mà cần phải thực hiện theo nó
.
2.
Lý do viết đề
tài
a. Tầm
quan trọng của đề
tài
Với Việt Nam thì việc phát triển kinh tế gắn liền với việc phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, do đó đề tài sẽ cho ta thấy những thực trạng (thời cơ, tồn
đọng) của doanh nghiệp vừa và nhỏ từ đó rút ra được các hướng đi đúng nhất, các
giải pháp tối ưu nhất nhằm nâng cao vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng và nền kinh tế nói
chung.
b. Nâng
cao nhận thức của sinh
viên
Sinh
viên là những người chủ thực sự của đất nứơc sau , là người có khả năng làm
thay đổi cục diện của đất nước . Khi đó đề tài sẽ giúp sinh viên nhận biết và có
ý thức hơn tới sự phát triển kinh tế đất nước . Nó cũng là cầu nối giữa lý
thuyết và thực tại , giữa sự phát triển kinh tế với nhiệm vụ của sinh viên
.
Là
một sinh viên , em xin cảm ơn thầy Mai Hữu Thực đã hướng dẫn em hoàn thành đề án
này , qua đó giúp em hiểu sâu sắc hơn về nền kinh tế đất nước , nâng cao năng
lực và trách nhiệm của bản
thân.
B. Phần
lý luận chung
I.Kinh
tế Việt nam , vai trò của doanh nghiệp vừa và
nhỏ(DNVVN)
Từ
năm 1986 , khi Đảng và nhà nước ta đã nhận thức ra các sai lầm của mình và đã có
bước chuyển đổi rất quan trọng sang kinh tế thị trường đó là chấp nhận nền kinh
tế nhiều thành phần thì vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ mới được nhận thức
đúng , nhưng do nứơc ta đi nước nông nghiệp lạc hậu do đó khi tiến hành cải cách
có các thực
trạng
Do
các doanh nghiệp ở Việt nam được phát triển một cách chính thức từ khi có Luật
doanh nghiệp tư nhân . Luật công ty áp dụng từ năm 1990, sửa đổi năm 1994. đến
năm 1998 số các doanh nghiệp tăng không đáng kể do các điều kiện khách quan và
chủ quan sau
:
Sản xuất kinh doanh của DNVVN đạt hiệu quả thấp diễn ra có tính chất phổ biến
trong tất cả các ngành, các loại hình sở hữu, nguyên nhan là do giá cả chất
lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước
do:
.Chi
phí vận chuyển quá
cao.
.Vai
trò hợp đồng phụ trợ chưa dược nhận thức
đúng.
.Thiếu
thông tin về thị trường trong và ngoài
nước.
.Khó
khó khăn về tài
chính.
.Công
nghệ, kĩ thuật
thấp.
.Nhu
cầu đào tạo của các ngành doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được đánh giá
đúng.
.Có
vấn đề khó khăn về nguyên liệu đầu vào theo đường nhập
khẩu.
.Sản
xuất nguyên liệu đầu vào chất lượng cao ở trong nước còn hạn
chế.
.Cơ
chế quản lý còn nhiều điều bất
cập.
Đó
cũng là thực trạng chung của nền kinh tế nứơc ta. Còn các doanh ngiệp quốc doanh
thì không phát huy được hiệu quả của mình luôn ỷ lại vào nhà nước do đó nó cũng
dần mất đi vị thế của nó trong nền kinh tế cạnh tranh có tính chất khốc liệt
hiện nay.
2.Vai
trò của DNVVN đối với sự phát triển kinh tế_xã hội
.
của
đất nước ta hiện
nay.
Trong
nền kinh tế chủ yếu là sản xuất của nước ta hiện nay, DNVVN chiếm tỷ trọng lớn
trong nền kinh tế hay trong tổng số doanh ngiệp. Cùng với nông ngiệp và kinh tế
nông thôn, DNVVN là những nhân tố bảo đảm sự ổn định sự ổn định và bền vững của
nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế, tạo việ làm cho người lao động, khai thác và
tận dụng hiệu quả tiềm năng về vốn, tay nghề và những những nguồn lực còn tiềm
ẩn trong đân cư, phát triển các ngành nghề truyền thống, góp phần phân bố công
nghiệp, bổ xung cho công nghiệp lớn, đảm bảo về cân bằng lớn trong kinh tế - xã
hội - môi
trường.
So
với các doanh nghiệp lớn, DNVVN có những lợi thế cơ động, linh hoạt, dễ dàng
chyển hướng sản xuất kinh doanh, nhạy bén với những sự thay đổi của thị trường,
sẵn sàng đầu tư vào những lĩnh vực thử nghiệm đổi mới công nghệ. Do số lượng nên
lĩnh vực này có khả năng đa dạng hoá sản phẩm, thoả mãn nhu cầu đa dạng của cuộc
sống, nó được cụ thể ở những điểm
sau:
a.Đóng
góp vào kết quả hoạt động của nền kinh
tế.
Trong
các loại hình sản xuất kinh doanh ở nước ta DNVVN có sức nan toả vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Số lượng DNVVN chiếm 98% tổng số doanh nghiệp thuộc
hình thức doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể, doanh nghiệp tư nhân,
công ty cổ phần,công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có vốn đầu tư nước ngoài và
các cơ sở kinh tế cá thể. Tính tính đến năm 1996 nước ta có 2,2 triệu hộ cá thể
hoạt động sản xuất kinh doanh, 5790 doanh nghiệp nhà nước, 21360 doanh nghiệp và
công ty tư
nhân.
b.
Tạo việc làm thu nhập cho người lao
động.
Với tốc độ tăng dân số hiện nay so với tốc độ tăng của nền kinh tế thì tỷ lệ
người thất nghiệp sẽ gia tăng, do đó ngoài các chính sách làm giảm tốc độ tăng
dân số cần phải kết hợp với tăng nhanh số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ để giải
quyết vấn đề công ăn việc làm cho người lao động .Thực tế các năm qua cho thấy ,
toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước năm cao nhất cũng chỉ thu hút 1,6 triệu lao
động. Trong khi đó các dơn vị cá thể trong công nghiệp và thương mại đã thu hút
được 3,5 triệu lao động , các công ty và các doanh nghiệp tư nhân cũng thu hút
được gần nửa triệu lao động, nếu tính cả số lao động được giải quyết làm ngoài
doanh nghiệp này thu hút có thể lên tới 4,5 triệu lao động . Hiện nay ở nước ta
có gần 1,6.000 000 doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết cho khoảng 20-25% lực
lượng lao động xã hội
.
c. Thu
hút vốn đầu tư phát triển kinh
tế
Do
quy mô nhỏ, dễ đầu tư , dòng chu chuyển vốn nhanh và nhờ các chính sách phát
triển kinh tế của Đảng và nhà nước , hàng năm các loại hình doanh nghiệp đã thu
hút một nguồn vốn đáng kể từ dân cư, đưa nguồn vốn vào trong chu chuyển khắc
phục tình trạng thiếu tình trạng thiếu vốn trầm trọng trong khi nguồn vốn trong
dân còn nhiều chưa được khai thác
.
d. Làm
cho nền kinh tế năng
động
Số
lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá lớn , lại thường xuyên tăng lên , nên đã
làm tăng khả năng cạnh tranh và làm bớt rủi ro cho các doanh nghiệp . Đồng thời
làm tăng số lượng hàng hoá dịch vụ thoả mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng
. Sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ tác động tích cực tới chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhất là cơ cấu nông nghiệp và nông
thôn.
e. Có
khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội
.
Về
vốn: Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khởi sự ban đầu bằng nguồn vốn hạn hẹp của
các cá nhân hoặc sự taì trợ của bên ngoài hết sức hạn hẹp , nhưng vẫn khởi sự
bằng nguồn vốn ít ỏi đó
.
Về
lao động : Do nó nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu người
tiêu dùng , do đó nó sử dụng nhiều lao động , ít vốn , khônh nhất thiết đòi hỏi
lao động có trình độ cao , phải đào tạo nhiều thời gian , tốn kém . Chỉ cần đào
tạo ngắn ngày là có thể tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh
.
Về
nguyên liệu : Do nguồn vốn ít , lao động chủ yếu là thủ công vì thế nguyên liệu
được sử dụng chủ yếu là nguyên liệu tại chỗ thuộc phạm vi địa phương , dễ khai
thác sử dụng qua đó cũng tạo ra công ăn việc làm cho người lao động địa phương .
Rất ít các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu ngoại nhập . Khi khảo sát 1000 doanh
nghiệp thì 80% số doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu cung ứng từ địa phương nơi
sản xuất.
f.Có
tác động quan trọng tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá , chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Quá
trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là quá trình cải tiến máy móc
thiết bị , nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu thị trường , đến một mức nào đó nhất định dẫn tới chuyển biến công
nghệ làm cho quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá không chỉ diễn ra theo
chiều sâu mà còn cả theo chiều rộng. DNVVN phát triển làm cho công nghiệp và
dịch vụ phát triển dẫn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thso hướng ngày một tốt
hơn.
3.
Sự cần thiết của
DNVVN.
Từ thực trạng của nền kinh tế và vai trò của các DNVVN ta phải rút ra được sự
phát triển kinh tế gắn với quá trình phát triển doanh ngiệp vừa và nhỏ, do đó
phải nói nên được sự cần thiết của doanh nghiệp vừa và nhỏ như
sau:
· Chúng
gắn liền với các công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ truyền thống
với công nghệ hiện
đại.
· Quy
mô nhỏ, có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh
doanh.
· Các
DNVVN dễ dàng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật-công nghệ hiện
đại.
· DNVVN
chỉ cần vốn đầu tư ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn
nhanh.
· DNVVN
có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với doang nghiệp lớn cho
nên có hiệu quả tạo việc làm
cao.
· hệ
thống tổ chức quản lý, sản xuất ccủa các DNVVN gọn nhẹ, công tác điều hành mang
tính trực
tiếp.
· Quan
hệ giữa người lao động và người quản lý khá chặt
chẽ.
· Sự
đình trễ, thua lỗ, phá sản của các DNVVVN ảnh hưởng rất ít, hoặc không gây lên
khủng hoảng kinh tế-xã hội, đồng thới ít chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế
dây
truyền.
Sự cần thiết của nó còn thể hiện qua các vai trò và tác động kinh tế xã
hội.
· Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí rất quan trọng ở chỗ chúng đa số trong tổng số
các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh . ở hầu hết các nước thì số lưọng
các DNVVN chiếm khoảng trên dưới 90% trong tổng số các doanh nghiệp
.
· Nó
góp phần trong sự tăng trưởng của nền kinh tế và tăng thu nhập quốc dân . Bình
quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP ở mỗi nước . ở Việt nam theo đánh giá của
viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thì hiện nay khu vực doanh nghiệp vừa
và nhỏ của cả nứơc chiếm khoảng 24% GDP
.
· Tác
động lớn nhất của DNVVN là giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc cho người
lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo . DNVVN tạo việc làm cho khoảng 50-80%lao
động trong ngành công nghiệp dịch
vụ.
· Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm năng động nền kinh tế . Trong cơ chế thị
trường với số lượng lớn kết hợp với chuyên môn hoá, đa dạng hoá mền dẻo , hoà
nhịp với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trườngdo đó làm năng động nền
kinh tế.
· Khu
vực DNVVN thu hút được nhiều vốn nhàn dỗi trong dân cư . do tính chất nhỏ lẻ ,
dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách , bản , làng và yêu cầu số lượng vốn bỏ ra
ban đầu của doanh nghiệp không nhiều nên các DNVVN là lực lượng quan trọng để
thu hút vốn trrrong dân cư. Theo ước tính số tiền nhàn dỗi trong dân cư nhiều
gấp vài lần so với vốn đầu tư từ nước ngoài vaò trong năm , do đó khi huy động
được nguồn vốn đó thì DNVVN kàm tăng khả năng của chính mình và làm nhẹ gánh
nặng vốn , làm cho dân tin làm theo chính sách của Đảng và nhà
nước.
· DNVVN
có vai trò lớn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đặc biệt là khu vực nông thôn
. Do nước ta có hơn 80% sản xuất nông nghiệp , trrong quá trình phát triển tất
yếu phải chuyển dịch cơ cấu Việc các doanh nghiệp phát triển và đi sâu vào nông
thôn sẽ là nhân tố thúc đẩy
nó.
· Các
DNVVN góp phần quan trọng trrong việc thực hiện đo thị hoá và phi tập trung hoá,
thực hiện phương châm “ly nông bất ly hương” qua đó nó phân phối lựclượng lao
động , giảm bớt số lao động dư thừa ở nơi trọng điểm như Hà Nội , TpHCM . nó
cũng rút dần lực lượng lao động làm trrong nong nghiệp chuyển sang côngnghiệp và
dịch vụ nhưng vẫn sống tại quê hương bản quán . Đồng hành với nó là diễn ra xu
hướng những khu vực tập trung các cơ sở công nghiệp m dịch vụ ngay ở nông thôn
tiến dần lên hình thành các thị tứ thị trấn hay các đo thi nhỏ đan xen giữa làng
quê đó là quá trình đo thị phi tập
trung
· CácDNVVN
là nơi ươm mầm cho các tài năng trẻ kinh doanh , nơi đào tạo rèn luyện các doanh
nghiệp . Với quy mô nhỏ nó sẽ giúp các doanh nghiệp làm quen với môi trường kinh
doanh của nền kinh tế thị trường đầy tính cạnh tranh và loại
trừ
kết
luận
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/kinh-te-viet-nam-trong-qua-trinh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te.html
II.
Thực trạng của các DNVVN ở Việt
nam
1.
Những yếu kém của DNVVN trong cơ chế thị trường hiện
nay
Bất
kỳ nền kinh tế nào dù là ở những nước phát triển đều có các doanh nghiệp vừa và
nhỏ . Đi vào cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế , sự gia tăng
sốDNVVN kà xu thế có tính quy luật. Chẳng hạn như ở Canada là một trong 7 nước
có nền công nghiệp phát triển nhất thế giới sốDNVVN chiếm hơn 90% tổng số các
doanh nghiệp và 50% lực lượng lao động . Còn ở nước ta hiện nay , số lượng các
doanh nghiệp ngày càng tăng , nó tuyển dụng hàng triệu người chiếm 49% lực lượng
lao động trrong tất cả các loại hình doanh nghiệp . Các DNVVN chiếm 65,9% so với
tổng số các doanh nghiệp ở nước ta , chiếm 33,6%các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
.
Sản
phẩm của khu vực kinh tế tư nhân (hầu hết là DNVVN) khoảng 25-28%GDP . Nộp ngân
sách , chỉ tính riêng khoản thu thuế ngoài quốc doanh hàng năm khoảng 30%thu
thuế từ khu vực quốc doanh(thống kê 1999) . Nó chiếm 31% giá trị giá trị sản
xuất toàn ngành công nghiệp và 63% tổng lượng vận chuyển hàng hoá và hành khách
. Song các doanh nghiêp còn gặp nhiều khó khăn , kinh doanh không ổn định , kém
hiệu quả, nó là do các nuyên nhân khách quan và chủ quan
sau.
· Về
quan điểm chủ trương chính
sách
Trước
đây , nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của các DNVVN chưa rõ ràng dẫn tới
sự phát triển của chúng mang tính tự phát , chưa có sự định hướng và hỗ trợ từ
phía nhà nước . Nhưng tại Đại hội Đảng8 và gần đây là công văn số 681/CP-KTN
của chính phủ đã đưa ra tiêu chí xác định DNVVN , giao cho Bộ kế hoạch và đầu tư
làm đầu mối chủ trì phối hợp cùng với các Bộ , ngành , địa phương tiếp tục
nghiên cức hoàn trỉnh định hướng chính sách phát triển DNVVN . Đây là bước tiến
lớn trong việc thực hiện chủ trương và các kế hoạch của Đảng , chính phủ về các
DNVVN.
· Vốn
và tín
dụng
Để
đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình các doanh nghiệp vay vốn chủ yếu từ các tổ
chức phi tài chính , thông thường từ bạn bè , người thân hoặc người có tiền nhàn
dỗi với mức lãi suất không chính thức thường gấp 3 đến 6 lần lãi suất ngân hàng.
Một phần là do các DNVVN khó có thể vay được các khoản tín dụng ngắn hạn trung
hạn và dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức khác. Mặt
khác những khoản vay có bảo đảm hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nguyên nhân là do các thủ tục tín dụng của ngân hàng và các tổ chức tín dụng còn
rất phức tạp, dẫn đến chi phí dao dịch cao, làm cho các khoản tín dụng trở nên
quá tốn kém đối với các DNVVN. Thêm nữa các ngân hàng không muốn cho các DNVVN
vay vì cho DNVVN vay khoản không lớn nhưng mức độ phức tạp có thể lớn hơn hoă
bằng một doanh nghiệp lớn vay do các ngân hàng sử dụng cùng một thủ tục cho vay
không cần phân biệt quy mô của doanh nghiệp lớn hay nhỏ. Và sợ hầu hết các doanh
nghiệp là tư nhân do đó không an toàn cho vốn vay và mang lại ít lợi nhuạan. Bên
cạnh đó, những quy chế về việc ký quỹ và các dự án đầu tư quá cứng nhắc làm cho
nhiều doanh nghiệp không thể đáp ứng được khi muốn vay vốn tín
dụng.
*Đất
đai.
Đất
đai cho các hoạt động của DNVVN còn thiếu, các doanh nghiệp gặp nhièu khó khăn
trong việc được cấp quyền sử dụng đất hoặc họ gặp khó khăn khi thuê đất làm trụ
sở hoặc nhà máy. Nguyên nhân là do các thủ tục để được cấp quyền sử dụng đất là
không rõ ràng và thường không công nhận cho các DNVVN, đặc biệt là đất công
nghiệp các quyền mua bán, chuyển nhượng, và cầm cố quyền sử dụng đất để ký quỹ
vốn còn chưa được chấp nhận. Theo điều tra 452 dự án đầu tư mới (1997) chỉ có 17
dự án thuộc khu vực tư nhân. Nó là một điều rât5s bất cập đối với DNVVN. Cũng do
những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, nên vẫn còn tồn
tại một thị trường đất đai đáng kể hoạt động một cách không chính thức và bất
hợp pháp.
*Công
nghệ_Kỹ
thuật.
Theo
đánh giá thì phần lớn các công nghệ do các DNVVN sử dụng là lạc hậu. Lý do xuất
phát từ việc vốn đầu tư đầu vào của các doanh nghiệp rất thấp so với các doanh
nghiệp nhà nước, hơn nữa các DNVVN được xác định với tiêu chí về vốn tương đối
thấp. Các doanh nghiệp cũng khó có thể vay vốn dài hạn và trung hạn cần thiết để
chuyển đổi, nâng cấp công nghệ. Bên cạnh đó , việc nhập khẩu máy móc thiết bị
đánh thuế với thuế suất cao. Trong khi đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
lại dược miễn trừ. So với các doanh nghiệp nhà nước, các DNVVN rất khó tiếp cận
thị trường công nghệ maý móc thiết bị quốc tế do thiếu các thông tin vế thị
trường này và nhà nước cũng chưa sử dụng các chính sách hỗ trợ để các doanh
nghiệp có khẳ năng có thể tiếp cận với công nghệ hiện đại để nâng cao sản
xuất.
.
Sức cạnh tranh và tiếp cận vơí thị trường trong nước và thế giới
.
Sưc
cạnh tranh của các DNVVN vẫn còn ở mức độ rất thấp nhưng sản phẩm của các DNVVN
phải cạnh tranh với số lượng lớn các sản phẩm nhập lậu với giá rẻ hơn. Điều này
là nguyên nhân các DNVVN khó có thể tiếp cận với thị trường thế giới . Do hạn
chế về hoạt động thương mại. Chất lượng sản phẩm đầu ra của các DNVVN thường
thấp hơn so với các hàng nhập vì trình độ kỹ thuật thấp; kỹ năng quản lý kém do
lhông được đào tạo và thiếu kinh nghiệm quản lý hiện đại. Hơn nữa tình hình cập
nhật thông tin nhanh và kịp thời , chính xác đầy đủ về thị trường trong nước và
thế giới chưa được các DNVVN đánh giá chính xác dấn đến sức cạnh tranh kém và bỏ
lỡ nhiều cơ hội kinh
doanh.
*Sức
cạnh tranh giảm trên thị trường trong
nước.
Các
DNVVN gặp nhiều khó khăn do những thủ tục điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở
thị trường trong nước. Lý do xuất phát từ việc bản quyền và các quyền sở hữu trí
tuệ khác chưa được thực hiện một cách nghiêm chỉnh do đó có hành giả, hàng nhái
còn phổ biến. Ngoài ra cơ sở sản xuất của các DNVVN trong điều kiện hiện nay còn
yếu kém cũng làm giảm sức canhj tranh của các sản phẩm sản xuất ra ngay tại thị
trường trong nước. Bên cạnh đó số lượng các trung tâm tư vấn và hỗ trợ cho các
doanh nghiệp còn chưa
đủ.
· Kỹ
năng đào tạo quản
lý.
Kỹ
năng chuyên môn và quản lý trong các DNVVN càn rất thấp do nền kinh tế đang
trong thời kỳ chuyển sang cơ chế thị trường , tuy nhiên kinh nghiệm quản lý theo
định hướng thị trường hiện đại còn thiếu chưa có sự hỗ trợ tài chính của nhà
nước cho việc đào tạo công nhân cho các doanh nghiệp . Các trường đào tạo quản
lý kinh doanh , quản lý và pháp luật thiên hẳn về lý thuyết hơn là thực hành
.
· Tình
hinh công nợ
.
Một
hiện tượng hiện nay là nhiều DNVVN, bán hàng co trả chậm rất nhiều và khó thu
hồi vốn qua đó làm chậm quá trình luân chuyển vốn và thất thoát vốn. Tình trạng
nợ khó đòi và sử dụng chiếm dụng vốn lan rộng dây truyền giữa các doanh nghiệp
nó là căn bệnh trầm kha và càng ngày càng nghiêm trọng . Do đó các doanh nghiệp
đang đứng trước nguy cơ phải mở rộng hệ thống phân phối để đẩy mạnh tiêu thụ sản
phẩm. Theo một cuộc khảo sát về tình trạng tài chính 300doanh nghiệp ngoài quốc
doanh của cục Thuế TpMCH đã phát hiện ra nhiều con số ảo ,có250 doanh nghiệp báo
cáo tình trạng tài chính coa vốn điều lệ âm , thậm chí có doanh nghiệp trong số
này âm hơn 30 lần mà vẫn hoạt động . Cũng theo cục Thuế TpHCM qua đợt đăng ký
kinh doanh có đến 1170 doanh nghiệp không đếnđăng ký , thuộc tình trạng chờ giải
thể hoặc cố tình không kê khai , 750 doanh nghiệp được cấp giấy nhưng không biết
địa điểm ở đâu , còn hoạt động hay đã ngừng hoạt động ( Thời báo Kinh tế Việt
Nam , Số 45 ngày
5/6/1999).
· Nhu
cầu đào tạo ở cacDNVVN chưa được đánh giá đúng
.
Trong việc phát triển một doanh nghiệp thì việc đào tạo phải được đưa lên hàng
đầu , việc đào tạo các cán bộ quản lý sẽ nâng cao chất lượng quản lý , đào tạo
công nhân sẽ nâng cao tay nghề dễ tiếp cận với công nghệ hiện đại do đó một
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển tất yếu phải nâng cao công tác đào tạo
.
Trong tất cả những yếu kém đó đều tác động rất xấu đến kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp , có những yếu tố tác động đến doanh nghiệp ở hiện tại ,có những
yếu tố tác động đến mai sau . nhưng yếu tố ảnh hưởng tới cả bây giờ và mai sau
của doanh nghiệp đó là cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp và trình độ đào
tạo cán bộ quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp.
2.
Những vấn đề tồn tại của cơ chế quản lý DNVVN và nguyên của sự tồn
tại
a. Tồn
tại cơ chế quản
lý
Vai
trò của nhà nước đối với foanh nghiệp , trong đó có cả DNVVN được thể hiện qua
các chức năng của quản lý nhà nước .Đó là tạo lập môi trường kinh doanh thuận
lợi cho các doanh nghiệp hoạt động , định hướng , hướnh hẫn , điều tiết , hỗ trợ
và kiểm soát. Trong đó cơ chế chính sáchđối với các doanh nghiệp ,đặc biệt là
các DNVVN được đẩy mạnh , tuy nhiên vẫn còn những hạn chế sau
:
· Thiếu
những văn bẩn pháp luật mang tính chất định hướng
.
Nhà nước chưa có luật cơ bản về DNVVN , cũng như các văn bản chính thức định
hướng phát triển DNVVN vào những ngành nghề nào là chủ yếu . SAu 3 năm đổi mới ,
Nhà nước mới ban hành được luật như Luật doanh nghiệp tư nhân ,Luật công ty ,
Luật thuế doanh thu , Luật thuế lợi tức và một số luật khác có liên quan đến
doanh nghiệp nói chung . Các Luật quan trọng như Luật khuyyén khích đầu tư, Luật
phá sản doanh nghiệp ... ,cũng mới được ban hành , chưa có luật riêng cho các
DNVVN . Đối với các nước trên thế giới , kể cả những nước trong khu vực họ đều
có những xhính sách riêng cho ccá DNVVN . Một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Ma-lai-xi -a, in-do nê-si-a,đã ban hành “Luật cơ bản cho các doanh nghiệp nhỏ”.
Nó xác định rõ quy mô vốn , lao động cho từng loại hình sản xuất kinh doanh ,
xác định rõ ngành nghề lĩnh vực ưu tiên , ngành nghề dành riêng cho các DNVVN ,
chính sách ưu đãi về vốn tín dụng ,trong đó quy định tỉ lệ bắt buộc đối với tất
cả các ngân hàng , tổ chức tín dụng bắt buộc phải cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
vay để sản xuất kinh doanh . Qua đó ta thấy việc thiếu những văn bản có tính
chất định hướng quan trọng , có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các
doanh nghiệp Từ sau khi đổi mới nhà nước ta đã có những chính sách dành riêng
cho các doanh nghiệp ,các cơ sở sản xuất ít vốn (Nghị định 66/HĐBT)... nhưng
chính sác đó chưa gây được lòng tin , và chưa có tính ổn định lâu dài . các
DNVVN và doanh nghiệp tư nhân mặc cảm là phụ thuộc vào nhà nước trước mỗi lần
thay đổi chính sách , phần thiệt thuộc về chủ doanh nghiệp cho nên các chỏ doanh
nghiệp khong dám đầu tư lớn , hoặc đầu tư thì cân nhắc xem đầu tư vào ngành nào
để thu được lợi nhanh , khi chính sách thay đổi thi đã có thể thu hồi vốn . Điều
này cho thấy các chích sách của nhà nước chưa có chiến lược định hướnh cho tương
lai các doanh nghiệp , nó chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt , do đó tạo nên
tâm lý lo âu cho các chủ doanh nghiệp . Trong đầu tư vào sản xuất mỗi khi chính
sách thay đổi thì buộc chủ sản xuất phải thay đổi ngành hàng , dẫn đến sự thay
đổi công nghệ ra rất tốn kém , do đó sự ra đời của các văn bản luật có tính chất
định hướng là rất quan trọng nó mang tính chất pháp ly cao
.
Do
chưa có luật , chính sách quy định về ngành nghề sản xuất kinh doanh ưu tiên cho
các DNVVN , cho nên khi ra đời cac doanh nghiệp phải đương đầu cạch tranh với
mọi loại hình doanh nghiệp , kể cả các doanh nghiệp lớn . Vì vậy tình trạng sớm
bị phá sản là điều khó tránh khỏi với DNVVN . Điều này đã được chứng minh ở các
nước công nghiêp phát triển , nếu không có chính sách ưu tiên thì tỉ lệ doanh
nghiệp nhỏ sau 1-2 năm hoạt động bị phá sản lên tới 50-60% (Anh 66%, 1969)
.Nhưng ở những nước có chính sách , luật dành riêng cho các DNVVN như Nhật Bản,
Hàn Quốc ưu đãi tín dụng cho ngành nghề lĩnh vực ưu tiên hoặc dành riêng , buộc
các doanh nghiệp lớn phải triển khai các hợ đồng phụ cho các doanh nghiệp thì tỉ
lệ DNVVN bị phá sản sau 1-2 năm hoạt động là từ
10-18%.
· Hệ
thống văn bản pháp luật có chính sách chưa đồng bộ , một số văn bản pháp luật đã
ban hành nhưng chưa được thực hiện tốt
.
Sau
năm 1986 , một số định hướng phảttiển kinh tế , phù họp với diều kiện thực tế
của Việt Nam , một đất nước nông nghiệp lác hậu sản xuất mang tính chất tự cung
tự cấp là chủ yếu chuyển sang sản xuất hàng hoá với nhiều thành phần kinh tế
.Đảng và nhà nước đã xác định việc phát triển kinh tế gấn liền với việc phát
triển các DNVVN . Mặc dù đã có luật khuyếh khích đầu tư trong nước nhưng quá
trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn điều đó ảnh hưởng không nhỏ , đặc biệt là
các DNVVN . Thực tế cho thấy , khi nước ta đã co luật đầu tư nước ngoài , đã
khuyến khích đầu tư nước ngoài vào nước ta , nhưng số dự án được mở ra rất chậm
, quy mô bé, mang tính chất thăm dò , giữ chỗ , hoặc đầu tư vào lĩnh vực có khả
năng thu hồi vốn nhanh, do họ sợ chính sách của ta thay đổi họ sẽ không thể thu
vốn được . Một số chính sách ban hành nhưng vẫn chưa đi vào cuộc sống vì có sự
mâu thuẫn đồng bộ giữa các khâu , điều đó không những ảnh hưởng tới doanh nghiệp
mà còn ảnh hưởng tới sự giám sát , kiểm soát của nhà nước
.
Một
chính sách ra đời phải xuất phát từ tình hình thực tiễn của đất nước, từ vĩ mô .
Trong khi đó không ít những văn bản pháp luật , chính sách không được thực hiện
tốt như Pháp lệnh Kế toánvà thống kê , Pháp lệnh bảo hộ lao động , đăng ký kinh
doanh ngành nghề đó là do các nguyên nhân
sau:
+Luật pháp chính sách còn nhiều điểm xa rời với thực tế của doanh nghiệp , các
loại thuế đánh chồng chéo nhau , không có sự phân biệt về quy mô doanh nghiệp
.
+ý thức tự giác trong việc thực hiện luật lệ , chế độ chính sách của nhà nước
đối với các DNVVN còn hạn chế , tình hình đăng ký một đằng kinh doanh một nẻo
còn phổ
biến.
+Tổ chức thực hiện pháp luật chưa
tốt
· Cơ
chế quản lý chưa tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi , cho các doanh nghiệp
vượt qua được các khó khăn về tài chính , kĩ thuất và thị trường
.
+ Hạn chế về tài chính : bộc lộ qua sự không hoàn thiện của thị trường tài chính
ở nước ta đặc biệt là hoạt động của hệ thống ngân hàng , tổ chức tín dụng . các
thủ tục xin vay còn phức tạp và phải thế chấp bằng tài sản cố định , đoa là mốt
điều rất khó với doanh nghiệp mới hoạt
động
+ Hạn chế về thị trường:đây là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp là thiếu
chiến lược về thị trường, kế hoạch sản xuất kinh doanh không bài bản . Nhà nước
chưa đưa ra nhiều tổ chức dịch vụ , tư vấn về thông tin thị trường , thiếu các
hiệp hội tư vấn của chính họ . Do đó các doanh nghiệp hoạt động bị giới hạn bởi
các thị trường địa phương là chủ yếu, sự vươn ra nước ngoài còn quá ít . Nhiều
cuộc điều tra ở đồng bằng sông Hồng cho thấy 70-80% sản phẩm của các doanh
nghiệp được tiêu thụ tại địa phương vì họ không nắm được thị trường ngoài tỉnh
nên không dám xuất hàng sang tỉnh khác
.
+ Hạn chế kĩ thuật:Trình độ trang bị kĩ thuật của các DNVVN còn rất thấp , phần
lớn vẫn là thủ công, hơn 2/3 các doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết cũ do các cơ
sở quốc doanh thanh lý hoặc tự chế
tạo
Vốn , lao động , công nghệ , kĩ thuật , thị trường là những vấn đề cơ bản của
các doanh nghiệp nói chung và của DNVVN khi mới tạo dựng và cho đến cả quá trình
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp , do đó cần sự hỗ trợ cần thiết của chính
chủ .
· Hệ
thống tổ chức quản lý DNVVN đổi mới chậm ,chưa phù
hợp.
+ Việc phân cấp, quản lý doanh nghiệp nhà nước nói chung, DNVVN nói riêng theo
từng ngành , từng địa phương tỏ ra không phù hợp vơid xu thế vận động trong nền
kinh tế thị trường dẫn đến sự mất bình đẳng trong việc hờng dẫn đến sự mất bình
đẳng trong việc huy động vốn và lựa chọn lĩnh vực sản xuất kinh
doanh.
+ Việc quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là DNVVN thì vừa
buông lỏng vừa phức tạp tuỳ thuộc vào từng địa
phương.
+ Cơ quan quản lý và cán bộ quản lý chưa thực sự đổi mới kịp với quá trình phát
triển của
DNVVN.
Nói chung hệ thống quản lý DNVVN còn phân tán , thiếu thống nhất, chậm đổi
mới.
b).Nguyên
nhân của sự tồn
tại.
Sự
hạn chế của cơ chế quản lý DNVVN là do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân khách
quan là phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, có nguyên nhân chủ quan thuộc về các cơ
quan quản lý nhà nước và quản lý
DNVVN.
+ Chưa nhận thức đúng và đầy đủ về nền kinh tế thị trường ảnh hưởng đến việc
thiết lập khuôn khổ pháp luật, chính sách đối với
DNVVN.
+ Nhận thức thiên kiến về các DNVVN ảnh hưởng tới việc xây dựng các chương trình
hỗ trợ phát
triển.
Trong
một thời gian dài nước ta say sưa với mô hình kinh tế quy mô lớn, hiện đại dựa
trên một nền tảng thấp kém do đó đã dẫn đến sự đình trệ trong nền kinh tế. Lịch
sử cho thấy rằng muốn lên được đỉnh cao hơn thì phải đi từ cái thấp hơn, sự nóng
vội chủ quan sẽ khó đi đến thành đạt phát triển kinh tế do đó thấy được tầm quan
trọng khi phát triển các
DNVVN.
+ Tổ chức thực hiện cứng nhắc, không phù hợp với tình hình địa phương sản
xuất.
Việc
áp dụng các chính sách của nhà nước mang ính chất đập
khuôn
do
đó nó mang lại nhiều bất lợi cho DNVVN. trong xu hướng chung
là
quản lý doanh nghiệp bằng pháp luất , do chưa có hệ thống pháp luật, chính sách
đồng bộ thì vận dụng khác nhau là không tránh khỏi. Hiện tượng quản lý “cứng”
như thời gian chờ xét duyệt dài, bộ máy quản lý thiếu năng lực, còn quan liêu
dẫn đến hiện tượng hoạt động ngoài pháp luật
.
+ Trình độ quản lý của doanh
nghiệp.
Đây
cũng là vấn đề đáng được quan tâm ở tất cả các doanh nghiệp đặc biệt là DNVVN.
Hiện nay đội ngũ quản lý của doanh nghiệp chưa đủ năng lực, chưa thể am hiểu về
thị trường và nắm bắt được trình độ quản lý
mới.
Với
những hạn chế và tồn tại đó nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các DNVVN. Để khắc
phục tình trạng này đảng và nhà nước ta phải đưa ra những đường lối, định hướng,
hỗ trợ các doanh nghiệp như
sau:
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/kinh-te-viet-nam-trong-qua-trinh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te.html
III.
Sự đổi mới ở cơ chế, chính sách cho các DNVVN ở Việt
Nam.
1. Hoàn
thiện cơ chế quản
lý.
+ Hoàn thiện và ban hành khung khổ pháp lý cho các
DNVVN
hoạt
động.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, ta đều thấy có các bộ luật riêng cho các
DNVVN. Do đó việc xây dựng một hệ thống văn bản, bộ luật dành riêng cho các
DNVVN là hết sức cần thiết. Trứoc mắt cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn
bản pháp luật hịn hanh và tham khảo một số bộ luật của các nước ASEAN trong tính
đặc thù của Việt Nam. Các văn bản phải đảm bảo tính ổn định lâu dài, ính đồng
bộ, thống nhất để các doanh nghhiệp yên tâm đầu tư sản
xuất.
+ Các thủ tục hành
chính.
Thủ
tục hành chính luôn là vấn đề nhức nhối của doanh nghiệp, do đó chính phủ phải
có những biện pháp triệt để và liên tục tạo điều kiện tốt nhất cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh trong đó chú ý các thủ tục: đăng ký thành lập và đăng ký
kinh doanh, thủ tục đất , thủ tục vay vốn tín dụng, thủ tục xuất nhập
khẩu.
+ Thành lập cục và cơ quan phát triển
DNVVN.
Việc
tập hợp các DNVVN lại trong một tổ chức quản lý thực thi các chính sách, kiến
nghị, các giải pháp phát triển DNVVN là nên làm ... cơ quan này sẽ thống nhất
quản lý các DNVVN trên phạn vi cả
nước.
+ Chấn chỉnh và hình thành các tổ chức cung cấp dịch vụ cho các
DNVVN.
Việc
tổ chức các cơ quan cung cấp thông tin, tư vấn và dịch vụ là vấn đề quan trọng ở
Việt Nam hiện nay và là nhu cầu bức thiết của DNVVN, giúp họ nắm được các thông
tin kinh tế, thông tin thị trường một cách nhanh nhất nhămf đem lại hiệu quả
hoạt động cao hơn cho các
DNVVN.
+ Kiến nghị đối với các chính sách quản lý kinh tế vĩ
mô:
_ Hoàn thiện chính sách thương mại và công nghiệp: có chính sách sửa đổi hợp lý
công bằng với mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, chính sách trợ giá
xuất khẩu bảo hộ sản
xuất.
_ Hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng: đảm bảo các DNVVN được vay vốn như
mọi thành phần kinh tế khác. Bài bỏ đối sử ưu đãi về vay nợ xoá nợ, giãn nợ đối
với các khoản nợ quá hạn..., mở rộng các hình thức tín dụng, thành lập các hệ
thống bảo hành bảo hiểm tín dụng cho các DNVVN. Dơn giản hoá các thủ tục ngân
hàng đặc biệt là về cho vay trung hạn và dài
hạn.
_ Hoàn thiện các chính sách thuế: tránh sự trùng lặp về thuế, các văn bản về
thuế cần phải rõ ràng, nhất quán ổn định, giải quyết sự bấ bình đẳng về nghĩa vụ
thuế giữa các loại hình doanh
nghiệp.
_ Hoàn thiện chính sách công nghệ đào tạo: Chính phủ cần có các biện pháp khuyến
khích để hỗ troqj đổi mớ công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các DNVVN
nhằm có các cán bộ quản lý và công nhân có tình độ cao. Chính phủ cần mở thêm
trung tâm đào
tạo.
_ Hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu
tư.
_ Hoàn thiện chính sách thị trường: Do thị trường là nơi các doanh nghiệp mua
bán trao đổi hàng hoá, công nghệ... do đó nhà nước phải mở cửa thị trường hơn
nữa để khuyến khích snr
xuất.
Tóm lại khi Việt Nam đã đạt được các thành tựu kinh tế thị phải có những chính
sách toàn diện hơn, cả trứoc mắt và lâu dài đối với các
DNVVN.
2. Chính
sách hỗ trợ các
DNVVN.
Do
vai trò rất quan trọng của các DNVVN, do đó sự phát triển nó là yếu tố tích cực
để phát triển và ổn định tế xã hội. Đảng và nhà nước đã hỗ trợ một cách rất tích
cực với các DNVVN về mặt tín dụng, đất đai, thị trường lao động... Tuy nhiên
hiệu quả thấp, lợi nhuận thấp, tăng trưởng chủ yếu đầu tư và nợ nần. Trong số
khoảng 34.000 doanh nghiệp ngoài nhà nước đang hoạt động hiện nay có khoảng 95%
doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ hoặc lao động dưới 200 người. Các doanh nghiệp này
về chính sách, hiện cũng được hưởng sự hỗ trợ về đầu tư, nhưng thực tế rất ít có
thể tiếp cận và được hưởng sự hỗ trợ này. Ngay bản thân các DNVVN là các đối
tượng có thể tiếp cận dễ dàng với các ưu đãi đầu tư cũng chỉ chỉ mới đạt tỷ lệ
khiêm tốn. Năm 1998 giải quyết được 124 dự án, năm 1999 là 165 dự án cho 83
doanh nghiệp trong tổng số gần 2000 doanh nghiệp do trung ương quản lý. Do đó
cần đa dạng hoá sự hỗ trợ cho các DNVVN ở các mặt, nhanh chóng xây dựng chương
trình hỗ trợ cụ thể đối với các DNVVN. Các chương trình chỉ nên tập trung trong
một số những lĩnh vực cần thiết tuỳ vào điều kiện cụ thể. Hiện nay có tới hơn
50% các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động thương mại và dịch vụ do vậy rất không
cần thiết có các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp đàu tư vào
lĩnh vực này. Hiện tại các lĩnh vực cần được ưu tiên là công nghiệp chế biến và
xây dựng hạ tầng nông thôn. Đối tượng thực hiwnj các triển khai các chương trình
nên là các địa phương, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải chủ động xây
dựng quy hoạch, thiết kế dự án gói đầu tư trong các lĩnh vực ưu tiên, phù hợp
với tình hình địa phương. Các địa phương có thể có những cam kết bảo hộ ưu đãi
nhất định. Khuyến khích các ngân hàng tại địa phương, đặc biệt là các ngân hàng
nông nghiệp, quỹ hỗ trợ đầu tư , quỹ khuyến khích xuất khẩu... tham gia dự án,
đầu tư hoặc cho
vay.
Giúp
dỡ hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận được với các ưu đãi nhà nước cho phép, đặc
biệt luất khuyến khích đầu tư trong nước đã quy
định.
Chương
trình có thể tập trung thực hiện trong 5 tới 10 năm tuỳ theo tình hình phát
triển. Ngoài ra còn kết hợp khai triển thực hiện nhanh chóng các chính sách đầu
tư theo chương trình phát triển của chính phủ như xây dựng cơ sở hạ tầng nông
thôn , công gnhệ chế biến sau thu hoạch, công nghệ nông
thôn.
IV.
Giải pháp phát triển DNVVN ở Việt
Nam.
Từ
thực trạng của các DNVVN, những vấn đề tồn tậi cần dược giải quyết, khảo sát
kinh nghiệm thực tế và một số nước trên thế giới ta có thể rút ra một số phương
hướng và giải pháp
sau:
1. Đổi
mới cơ chế quản lý
DNVVN.
+ Đổi mới về nhận thức tư tưởng: xuất phát từ quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp
với hạ tầng kinh tế. Đó là cơ chế quản lý kinh doanh phải được xây dựng phù hợp
với mô hình kinh tế được lựa chọn, đó là nền kinh tế thị trường có định hướng xã
hội chủ nghĩa và bản chất của cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tương
ứng với bản chất của mô hình kinh tế
đó.
+ Đổi mới về quan điểm của cơ chế quản
lý:
_ Hiệu quả kinh tế - xã hội: Các doanh nghiệp kinh doanh ngoài hiệu quả kinh tế
nhưng không thể coi nhẹ hiệu quả xã hội, phải gắn nó làm
một.
_ Phát triển DNVVN theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từng bước chuyển đổi căn
bản toàn diện phương thức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ lao động thủ
công lạc hậu cho đến lao động máy móc, thiết bị hiện
đại.
_ Quan điểm tiên tiến và hiện thực: Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản
lý DNVVN trước hết đảm bảo yêu cầu tiên tiến, hiện đại, đó là việc nghiên cứu
thành tựu tiên tiến khoa học quản lý, kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế
phát triển đặc biệt là khu vực Đông Nam Á
.
_ Quan điểm kết hợp hài hoà lợi ích của chủ doanh nghiệp-người lao động và nhà
nước.
_ Kết hợp nhịp nhàng giữa các DNVVN với các doanh nghiệp
lớn.
+ Đổi mới cơ chế quản lý DNVVN theo hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường
và có sự quản lý của nhà nước. Sự phân định quản lý của nhà nước và của doanh
nghiệp chưa thật rõ ràng, gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do
đó Đảng và nhà nước đã xác định rõ vai trò quan trọng của nhà nước là: Nhà nước
quản lý bằng pháp luật, kế hoạch và công cụ kinh tế vĩ mô chứ không can thiệp
vào quản lý hoạt động kinh tế vi mô bằng các đòn bẩy kinh tế, bằng các chính
sách khuyến khích, hỗ trợ buộc các doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động sản
xuất kinh doanh theo định hướng của nhà
nước.
*
Đổi mới nội dung và các bộ phận cấu thành cơ chế quản lý
DNVVN:
+
Đổi mới và hoàn thiện cơ cấu hệ thống pháp luật : phải có một hệ thống pháp luật
tốt, phù hợp để thu hút đầu tư vào các DNVVN và caũng kiểm soát được
chúng
+
Đổi mới về hoàn thiện chính sách thúc đẩy DNVVN phát
triển
Chính sách về ngân
hàng
Chính sách về thuế : Nó là một trong những chính sách quan trọng tác động đến
hoạt động của các doanh nghiệp . Cần co các loại thuế khác nhau và phù hợp hơn
đối với các doanh nghiệp . Đó là áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với doanh
nghiệp đã đăng lý , đơn giản hoá các thủ tục hành chính
thuế
Chính sách xuất nhập khẩu : nó cần đổi mới một bước , thu hẹp hoặc xoá bỏ độc
quyền xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp lớn . Cần có sự tài trợ xuất nhập khẩu
tài trợ thương mại thông qua các loại hàng ngoại thương và các ngân hàng thương
mại
Chính sách về lao động tiền lương: có thể cải tiến , thiết lập hệ thống thang
bảng lương mang tính chất định hướng cho các doanh
nghiệp
Điều hoà quan hệ cung cầu và giá cả thị trường: Nhà nước phải ổn định được nền
kinh tế vĩ mô để đều tiết tiền tệ và lãi
suất.
2. Về
tổ chức
Thiết
lập các cơ quan quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ : Đó ;à đổi mới và giúp thực
hiện các chương trình phát triển DNVVN , vạch chiến lược sản xuất kinh doanh ,
tham mưu và hoạch định các chính sách có liên quan đến
DNVVN
Thiết
lập hệ thống tổ chức, các cơ quan hỗ trợ phát triển: Xuất phát từ thực tiễn yếu
kém , khó khăn cúa DNVVN ở nước ta do đó phải có hệ thống cơ quan hỗ trợ phát
triển
Hệ
thống tổ chức tài chính ứng dụng , ngân hàng : Nhà nước phải lập quỹ tín dụng
quốc gia , đa dạng hoá các loại hình cho vay , giảm bớt các thủ tục cho vay pử
ngân hàng.
Hệ
thống tổ chức đào tạo : Đây là điều kiện căn bản dẫn tới sự phát triển của các
doanh nghiệp . Nhà nước phải lập các quỹ quốc gia về đào tạo và việc làm để hỗ
trợ cho các truung tâm do nhà nước tổ chức và các trung tâm đào tạo tư
nhân
Hệ
thống tổ chức tư vấn, dịch vụ , cung cấp thông tin . Đây là vấn đề mới mẻ đối
với nước ta nhưng rất cần thiết đối với doanh nghiệp . Khi nó phát triển ,nó sẽ
giúp các doanh nghiệp có được những thông tin cần thiết để xác định kinh doanh
đứng đắn, hạn chế rủi ro ở mức thấp
nhất
Hệ thống tổ chức tài trợ đổi mới công nghệ , tỏ chức nghiên cứu ứng dụng kĩ
thuật và công nghệ mới: với sự hoạt động của hệ thống này nó sẽ giúp DNVVN mốt
cách đáng kể trong việc nâng cao dây truyền sản xuất và chất lượng sản phẩn để
có thể cạnh tranh được trên thị
trường
Thiết lập hệ thống tổ chức đại diện : Hệ thống này sẽ liên kết các doanh nghiệp
với nhau , tìm thấy ở nhau tiếng nói chung có hiệu lực. Nó dựa trên sự tự nguyện
của các dianh nghiệp và vì lợi ích của doanh nghiệp ở từng ngành ,từng nghề ,
từng vùng và trên toàn
quốc
3. Kinh
nghiệm của các
nước
Hầu
hết các nước trên thế giới , kể cả các nước phát triển và đang phát triển đều
chú ý và giúp đỡ các DNVVN . Khu vực này được đánh giá là những hạt nhân của
những hoạt động công nghiệp có tính chất đổi mới . Trong đó những chính sách và
biện pháp của nhà nước đều nhằm vào quá trình thúc đẩy quá trình ra đời những mô
hình mới năng động . Đồng thời hỗ trợ một cách tích cực trên các phương diển
khác nhau để DNVVN phát triển , tạo nên sự phồn thịnh của đất nước ..Quá trình
đó phải dựa trên kinh nghiệm thành công của một số nước sau: Băng-la-đét, ấn độ
đây đều là những nước đông dân , với phần lớn số dân làm nông nghiệp , nhưng với
những chính sách đúng đắn trong việc phát triển các DNVVN , nên đã giúp nền kinh
tế nước họ đã có sự tiến bộ vượt
bậc
C. Kết
Luận
Như
một tác động của quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam, các DNVVN ở Việt Nam
đã phát triển nhanh chóng, đồng thời có những đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mặc dù vậy sự phát triển của
những doanh nghiệp này trong những năm qua còn rất nhiều hạn chế, điều đó chứng
tỏ phần nào tiềm năng của chúng ta chưa được khai thác triệt để hay sự bất cập
của cơ chế chính sách của nhà nước đối với DNVVN, vì thế thông qua đề tài này
phần nào thấy rõ được những khó khăn tồn đọng của DNVVN , từ đó đưa ra một giải
pháp hữu hiệu nhất nhằm khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào khu vực
kinh tế
này.
Tuy
đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về mặt số liệu, kinh nghiệm thực tế và
phương tiện nghiên cứu nên nội dung của đề tài còn nhiều sai sót. Rất mong được
sự góp ý của thầy giáo và các
bạn.
Hà Nội , ngày 22 tháng 2 năm
2003
Hoàng Trung
Hiếu
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/kinh-te-viet-nam-trong-qua-trinh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét