MỞ ĐẦU
Trong
bức tranh đa dạng của thế giới, sau chiến tranh lạnh, xuất hiện nhiều tổ chức
hợp tác và liên kết kinh tế, khu vực thu hút sự hội nhập của nhiều quốc gia,
nhiều nền kinh tế. Trong đó ngoài tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời từ
GATT phải kể đến liên minh Châu Âu (EU), tổ chức hợp tác kinh tế Châu á - Thái
Bình Dương (APEC)...
Hoà
vào dòng chảy chính của thế giới là toàn cầu hóa khu vực hóa ASEAN ra đời với
mục tiêu cơ bản là đảm bảo ổn định, an ninh và phát triển của toàn khu vực Đông
Nam á.
Từ
một tổ chức liên minh kinh tế chính trị xã hội lỏng lẻo ASEAN đã vươn lên thành
một khối khá vững chắc với nền kinh tế phát triển, an ninh chính trị tương đối
ổn định. Nghiên cứu thị trường tiềm năng rộng lớn với hơn 500 triệu dân này sẽ
mở ra cơ hội mới cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Chúng ta hy vọng vào một tương lai
không xa ASEAN sẽ trở thành một thị trường thống nhất và phát
triển.
I. SỰ
RA ĐỜI CỦA “HỘI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á”(ASEAN)
Từ
sau năm 1945 ở Đông Nam Á (ĐNA), nhiều quốc gia độc lập đã
ra đời dưới nhiều hình thức khác nhau. Năm 1945, Indonexia , Việt Nam và Lào
tuyên bố độc lập , Anh trao trả độc lập cho Mianma, Mã lai vào năm
1947,1957……..
Sau khi giành được độc lập ,nhiều nước Đông Nam Á đã có dự định thành lập một số
tổ chức khu vực nhằm tạo nên sự hợp tác phát triển trên các
lĩnh vực kinh tế , khoa học , kỹ thuật và văn hoá ; đồng thời hạn chế ảnh hưởng
của các nước lớn đang tìm mọi cách để biến ĐNA thành vườn sau của
họ.
Với
mục tiêu cơ bản là đảm bảo ổn định, an ninh và phát triển của toàn khu vực, ngày
8-8-1967, Hiệp hội các nước Đông Nam Á gọi tắt là ASEAN được thành lập
.
Khi mới ra đời, tổ chức này chỉ có 5 nước tham gia là Thái Lan, Singapore,
Indonexia, Malaysia và Philippin, đến nay ASEAN đã được mở rộng với 10 thành
viên và đã công bố các văn kiện chính
thức:
- Tuyên
bố Băng Cốc năm 1967: là bản Tuyên bố thành lập tổ chức ASEAN. Nội dung của
tuyên bố này gồm 7 điểm, xác định mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá, hợp
tác thúc đẩy tiến bộ xã hội của các nước thành viên trên tinh thần duy trì hoà
bình và ổn định khu
vực.
- Tuyên
bố Cuala Lumpua năm 1971: đưa ra đề nghị xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực
hoà bình, tự do và trung lập, gọi là tuyên bố ZOPFAN
.
-
Hiệp ước Bali năm 1976: nêu lên 6 nguyên tắc nhấn mạnh đến sự hợp tác song
phương hay đa phương giữa các nước ngoài Hiệp hội trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, xã hội… xây dựng nền hoà bình vững chắc và nền kinh tế phát triển cho cộng
đồng các quốc gia trong Hiệp hội, nâng cao mức sống nhân
dân.
II. ĐIỀU
KIỆN TỰ NHIÊN - VĂN HOÁ -XÃ HỘI
:
1. Điều
kiện tự
nhiên :
Vị trí địa lý
: Đông Nam Á chiếm một vị trí địa lý quan trọng trên trục lộ giao thông hàng hải
quốc tế, là cửa ngõ nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nối liền các nước
Tây Âu và Đông Á. Đông Nam Á nằm ở khu vực Đông Nam Châu Á, giáp với Trung
Quốc ở phía Bắc , phía ông là Biển Đông. Ngay từ thời xa xưa, nơi đây đã trở
thành một trong những trung tâm thương mại, chu chuyển hàng hóa sầm uất trên thế
giới như Hội An (Việt Nam) và cho đến cả ngày nay như quốc đảo Singapore hay
Malaysia.
Nếu chia theo địa lý thì ta có thể chia Đông Nam Á làm 2 phần : phần đất liền
với các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma và khu vực quần đảo, bán đảo như
Singapore , Philippin, Malaysia,
Indonexia.
Diện
tích : 3999,8912
km2.
Dân số :
500 triệu , chiếm khoảng 5% dân số thế
giới,
Tài nguyên thiên nhiên :
Có thể nói, khu vực Đông Nam Á là một trong những nơi có hệ sinh thái đa dạng và
phức tạp nhất thế giới. Khu vực này có tỷ lệ che phủ rừng khá lớn, hơn 50% là
dừa, hơn 30% là dầu dừa, 20% dứa và hơn 20% cùi dừa, chiếm tới 80% lượng cao su
thiên nhiên đồng thời chứa rất nhiều quặng kim loại quí quan trọng như đồng và
thiếc (60%). Đông Nam Á là khu vực xuất khẩu gạo đứng thứ nhất trên thế giới
với 2 nước dẫn đầu là Thái Lan và Việt Nam. Ngoài ra, Đông Nam Á còn chiếm một
lượng cà phê, ca cao lớn trên thế giới, và là nơi sinh sống của nhiều loại động
thực vật quí hiếm. Sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên là một trong những
đIều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của các nước Đông Nam
Á.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/hiep-hoi-cac-nuoc-asean.html
Khí hậu :
ASEAN nằm ở gần xích đạo, cho nên có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng, độ ẩm lớn
và mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình thường vào khoảng
200 - 320 C. Lượng mưa hàng năm
thường từ 1500 - 3000mm và thường chia làm 2 mùa : đó là mùa khô và mùa
mưa.
Điều
kiện thổ nhưỡng và khí hậu cũng rất thuận lợi cho sự phát triển cho các loại cây
công nghiệp và sản xuất các loại hàng nông phẩm có giá trị lớn. Hàng năm thường
xảy ra thiên tai ở nơi này hay nơi khác, song không có hạn hán kéo dài hay những
vụ “giặc châu chấu ” dữ dội như ở châu Phi . Sự bất hạnh như lũ lụt,núi lửa… chỉ
xảy ra ở một vài nơi trong một thời gian nhất định, không tràn lan không liên
miên .
Về
chế độ chính trị :
Mỗi quốc gia đều có một nền chính trị một nền hành chính riêng. Sự ảnh hưởng lẫn
nhau về mặt chính trị giữa các quốc gia là không lớn
lắm.
Bruney:
thực hiện chế độ quân chủ, đứng đầu là Quốc Vương. Quốc vương cũng kiêm Thủ
tướng và Bộ trưởng quốc
phòng.
Indonexia:
Indonexia thực hiện chế độ cộng hoà đa đảng thống nhất, cơ quan lập pháp gồm 2
viện, đứng đầu nhà nước là Tổng
thống.
Lào:
Nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào tuyên bố thành lập năm 1975, quốc hội là cơ
quan quyền lực tối cao của nhà
nước.
Malaysia:
Malaysia thực hiện chế độ quân chủ lập hiến liên bang, bao gồm tất cả có 13 liên
bang, mỗi bang lại có một hiến pháp một quốc hội riêng. Quốc hội của Malaysia
gồm hai viện. Đứng đầu nhà nước là quốc vương, đứng đầu chính phủ là thủ
tướng.
Mianma:
Mianma đứng đầu nhà nước là thống tướng kiêm thủ
tướng.
Philippin:
Philippin thực hiên chế độ cộng hoà với quốc hội gồm hai viện, đứng đầu nhà nước
là tổng
thống.
Singapore:
thực hiện chế độ cộng hoà với quốc hội một viện, đứng đầu nhà nước Singapore là
tổng thống, đứng đầu chính phủ là thủ
tướng.
Thái
lan: Thái Lan thực hiện chế độ quân chủ lập hiến, quốc hội Thái
Lan gồm một hạ nghị viện do dân bầu và một thượng nghị viện được bổ nhiệm. Đứng
đầu nhà nước Thái Lan là vua, đứng đầu nhà nước là thủ
tướng.
Việt
Nam: là nước Xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo, đứng đầu Đảng cộng
sản là tổng bí thư, đứng đầu chính phủ là thủ tướng, quốc hội đóng vai trò lập
pháp và quyết định những chính sách lớn của đất nước, chủ tịch nước là người
đứng đầu đất
nước.
Văn
hoá:
“ Thống nhất trong đa dạng “ đó là nét đặc trưng nổi bật của các nước ASEAN. Sự
đa dạng ở đây được thể hiện trong ngôn ngữ, trong tập quán, trong tôn giáo…..Con
người cũng như các phong tục tập quán, tính cách của các quốc gia đều tương
đồng nhau.
Về
Ngôn ngữ:
mỗi một quốc gia đều có một ngôn ngữ riêng, ngoàI ra còn có một số nước còn sử
dụng thêm tiếng Anh làm ngôn ngứ thứ hai của mình như Singapore, Indonexia hay
Malaysia. Việc dùng tiếng Anh trở nên phổ biến như vậy đó là do trước đây các
nước này đã có một thời gian lâu dài bị bọn thực dân Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha xâm lược. Chính vì vậy mà tiếng Anh cũng được sử dụng phổ biến trong các
sinh hoạt hàng ngày hay được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động kinh
doanh.
Bên
cạnh tiếng Anh thì tiếng Hoa cũng được sử dụng tương đối rộng rãi, số lượng
người Hoa ỏ khu vực Đông Nam Á cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong toàn bộ dân số
ASEAN.
Đặc
biệt người dân Đông Nam Á đều có chung nguồn gốc là người Mông Cổ phương nam với
ba ngữ hệ lớn : Đông Nam Á, Mãlai đa đảo, Hán -tạng. Chính vì vậy mà một người ở
Mãlai thuộc dòng ngôn ngữ Mãlai đa đảo khi vào vùng người Chăm, Gia-rai, Êđê ở
Việt Nam sẽ không mấy khó khăn để có thể hiểu được nhau; đối với người Thái ở
Thái Lan với người Thái, người Tày ở Việt Nam cũng vậy
.
Tập
quán
Nếu nhìn cả khu vực Đông Nam Á, chúng ta thấy từ thời xa xưa nơi đây đã từng có
một nền văn hoá rực rỡ, nền văn minh nông nghiệp lúa nước phát sinh rất sớm.
Trước khi tiếp nhận những ảnh hưởng văn hoá tư bên ngoài, các cộng đồng dân tộc
ở Đông Nam á đều có tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng đa thần giáo vạn vật hữu linh
và tục thờ cúng tổ tiên , nó mang nặng tính chất Á đông. Đối với các nước nằm
trong vùng đất liền , việc trồng lúa , cây lương thực vẫn là tập quán canh tác
lâu đời của mọi người
dân.
Về
tín ngưỡng tôn giáo:
trong thời gian lịch sử lâu dài, các nước Đông Nam á đã tiếp nhận văn hoá từ các
nền văn hoá Ấn Độ, Trung Hoa cổ đại cho đến nền
văn minh của các nước A rập, các nước phương Tây như Tây Ban Nha ,Bồ Đào Nha,
Anh ,Pháp .Chính vì vậy mà có thể nói rằng Đông Nam á đã có nhiều kinh nghiệm
hơn bất cứ khu vực nào trên thế giới trong việc không ngừng đổi mới trong nền
văn hoá truyền thống của mình cùng với cách kết hợp hài hoà các yếu tố văn hoá
nội sinh và ngoại sinh . Nền văn hoá Đông Nam á là nền văn hoá tiếp thu có chọn
lọc từ các tôn giáo lớn trên thế giới như đạo Phật , đạo Hồi, đạo Kitô, đạo
Khổng. Sự xâm lược của người phương Tây , cùng với sự đổ bộ của người Ấn cũng
như người Hoa đã khiến cho tín ngưỡng tôn giáo của các nước không giống nhau..
Đối với các nước nằm gần Trung Quốc, một nước có nền văn hoá lâu đời, thì những
nước đó chịu ảnh hưởng nhiều của đạo Phật như Việt Nam , hay Lào chẳng hạn..
Đối với những nước này đạo Phật được coi như quốc giáo. Trong khi đó Indonexia,
Malaysia lại lấy đạo Hồi làm quốc
giáo
(
>90% dân số theo đạo Hồi), hay đặc biệt hơn là Philippin tôn giáo chính là
Thiên chúa giáo. Sự khác biệt này chúng ta có thể giải thích rằng đó là do giao
lưu buôn bán với những chuyến tàu biển từ Ấn Độ Dương sang Đại Tây Dương cùng
với sự áp bức từ các nước phương Tây. Nói tóm lại nền văn hoá Đông Nam á là một
nền văn hoá mở có chọn lọc tiếp thu tích tụ những tinh hoa nhất của thế giới.
Đó là sự kết hợp hài hoà giữa tính sâu sắc của đạo Phật, tính thần bí của đạo
Hồi và sự văn minh của Thiên chúa giáo. Mở mà không bị đồng hoá ,mở mà vẫn giữ
được bản sắc của dân tộc
.
Với nền văn hoá đa dạng và phong phú như vậy nên Đông Nam á rất thuận lợi trong
việc phát triển ngành du lịch ở những nơi như đền Angcovat,với tháp Chàm của
Việt Nam ,với chùa Borobudu của Indonexia ,và sự văn minh của thế giới phương
Tây với toà tháp đôI choc trời của
Inđonexia.
III.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
ASEAN
1.Kinh tế các nước
ASEAN
Trong
suốt một thập niên kéo dài từ nửa sau những năm 80 đến nửa đầu những năm 90,
Đông Nam á đã được thế giới biết đến như một trong những khu vực phát triển năng
động nhất trên thế giới, mức tăng trưởng kinh tế trung bình của các nước thành
viên A là 7% mỗi năm. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế đời sống nhân dân cũng
tăng lên đáng kể. Một không khí hứng khởi tự tin tràn ngập trên khắp vùng này.
Các quốc gia làm chủ tốc độ tăng trưởng cao khi Malaixia, Thailan... đã quyết
định tăng tốc để thực hiện quyết tâm hoá rồng ngay trước ngưỡng cửa của thế kỷ
XXI.
Những
thành tựu phát triển kinh tế xã hội đó làm cho vị thế của A. Với tư cách là một
tổ chức hợp tác khu vực và của các nước thành viên của Hiệp hội được nâng cao
trên các diễn đàn khu vực và quốc
tế.
Tiếc
rằng niềm hứng khởi của chúng ta không được lâu. Bắt đầu tháng 7 năm 1997, một
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã nổ ra ở khu vực Đông á và Đông Nam á. Điều
đáng lưu ý là cuộc khủng hoảng đó lại khởi phát từ Thailan, nước được xem là đã
góp phần đáng kể tạo nên "sự thần kỳ" của Đông á và Đông Nam á. Làn sóng khủng
hoảng đã nhanh chóng lan sang Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Indonexia và
Philipines. Chỉ trong vòng 1 năm kinh tế Thái lan và Indonesia đã sụp đổ nhanh
chóng. Các nước trong khu vực chịu ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau. Lúc đầu
người ta tưởng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ này chỉ đơn thuần là khủng
hoảng về taì chính. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng là do sai lầm trong chính
sách tiền tệ và do hoạt động phá hoại của nhà tỷ phú Mỹ Soros. Thời gian cho
thấy vấn đề không đơn giản như
vậy.
Đằng
sau cuộc khủng hoảng đó người ta nhìn ra những nguyên nhân sâu xa hơn. Những
nguyên nhân này có mặt trong hầu hết mô hình phát triển của các nước A. Mô hình
phát triển của các nước này thực chất chỉ là những biến thể của mô hình phát
triển của Đông á mà những đặc trưng cơ bản của mô hình đó là hướng ra bên ngoài,
một nhà nước mạnh, tích cực can thiệp vào kinh tế, coi trọng học vấn và có tỷ lệ
tiết kiệm
cao.
Khủng
hoảng tài chính tiền tệ không chỉ tàn phá các nền kinh tế ASEAN mà còn cho thấy
tính chất không bền vững của con đường phát triển kinh tế mà các nước đó đã đi
qua.
Vượt
qua thời kỳ cam go nhất, thời gian qua kinh tế A đã xuất hiện những dấu hiệu
phục hồi đáng khích lệ. GDP của khu vực tăng 2,9% năm 1999 cùng với cơ sở vật
chất tốt, các giải pháp kinh tế tiếp theo của chính phủ, khả năng thích ứng và
linh hoạt của khu vực tư nhân cùng với cộng với tăng trưởng khá của các nền kinh
tế chủ chốt trên thế
giới.
Tăng
trưởng GDP của một số nước ASEAN có chọn
lọc
Những
nước đầu tư nhiều vào Mianma (1996 -
2000)
|
Nước
|
1996
(%)
|
199&
(%)
|
1998
(%)
|
1999
(%)
|
2000
(%)
|
|
Indonêxia
|
8,0
|
4,7
|
-13,7
|
-0,8
|
4,0(6)
|
|
Malaixia
|
8,2
|
7,7
|
-6,7
|
2,4
|
7,6
|
|
Philippin
|
5,5
|
5,2
|
-0,5
|
2,2
|
4,0
|
|
Thái
Lan
|
6,7
|
-1,3
|
-9,4
|
4,0
|
4,8
|
Động
lực chính của sự phục hồi và tăng trưởng cao hơn dự kiến, bất chấp các nhân tố
đe doạ bất ổn định, là sự kết hợp của nhiều yếu tố khác nhau, quan trọng nhất là
tăng tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu.
Một
số chỉ tiêu tài chính của nhóm nước phát triển trong
ASEAN
|
|
Indonesia
|
Malaysia
|
Philipines
|
Thailand
|
|
1.
Lạm phát cả năm
(%)
|
8,9
|
1,9
|
4,9
|
1,7
|
|
2.
Cán cân thương mại (tỉ
USD)
|
23,8
|
16,7
|
6,7
|
6,4
|
|
3.
Dự trữ ngoại tệ (tỉ
USD)
|
|
|
|
|
|
Năm
1999
|
26,2
|
32,5
|
12,4
|
31,7
|
|
Tháng
8 -
2000
|
27,3
|
32,2
|
13,6
|
31,6
|
Nguồn:
Tạp chí The ecomonist các số năm
2000.
Tuy
nhiên, sự kiện các trung tâm quân sự và kinh tế của Mỹ bị tấn công ngày 11/9 đã
đẩy các nước Đông Nam á chưa hồi phục hoàn toàn sau cơn khủng hoảng tài chính
1997 - 1998 lại bước vào giai đoạn sóng gió, khi mà Mỹ, Nhật Bản - nơi mà kinh
tế Châu á phụ thuộc rất nhiều đều gặp bế
tắc.
Theo
đánh giá của ngân hàng phát triển Châu á (ADB), xuất khẩu hàng hoá của khu vực
ASEAN năm 2001 chỉ tăng 5,3% kém xa so với 18,8% năm 2000. Kinh tế các nước công
nghiệp hoá ở Châu á như Malaixia, Indonesia, Singapore đều phụ thuộc nhiều vào
ngành điện tử - tin học viễn thông, trong khi ngành này rơi vào suy thoái chưa
từng có, giảm 33% so với năm 2000, chỉ đạt doanh thu 152 tỉ USD, tiêu thụ máy
tính giảm 50% so năm trước. Xuất khẩu giảm kéo theo tốc độ tăng trưởng của các
nước trong khu vực giảm đáng
kể.
Bên
cạnh đó, kinh tế toàn cầu giảm và vụ khủng bố Mỹ ngày 11/9 làm cho ngành du lịch
- một nguồn ngoại tệ quan trọng của Châu á bị suy yếu. Mặt khác lĩnh vực tài
chính ngân hàng vẫn còn yếu kém, tỷ lệ nợ khó đòi cao khả năng thanh toán rủi ro
thấp.
Năm
2001, nhu cầu nhập khẩu gạo trên toàn cầu giảm, mậu dịch gạo thế giới đạt 22,4
triệu tấn, gần như không tăng so năm trước ASEAN chiếm gần 25% sản lượng thóc
toàn cầu đã tăng sản lượng thóc thêm 1,14% mặc dù sản lượng gạo toàn thế giới
giảm. Tháilan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới có sản lượng thóc tăng
0,4% năm
2000.
Xingapo:
Là một trong những nền kinh tế vững mạnh nhất khu vực, song Singapore đang rơi
vào đợt suy thoái trầm trọng nhất trong vòng 37 năm qua do kinh tế Mỹ suy yếu và
ngành điện tử toàn cầu sa sút. Có thể nói Singapore bị ảnh hưởng nặng nề nhất
khu vực vì nước này phụ thuộc nhiều vào nhu cầu bên ngoài. Chính phủ Singapore
đã phải điều chỉnh mức đánh giá về tăng trưởng GDP quốc gia năm 2001 từ 3,5% còn
0,5 - 1,5%. Vậy mà nhiều người cho rằng con số đó vẫn còn lạc quan, vì kinh tế
Singapore có thể giảm chung 0,3 - 3% sau khi tăng 9,9% năm 2000 tỉ lệ thất
nghiệp mới lên tới 4,5% cao hơn cả thời kỳ khủng hoảng tài chính Châu á 3 năm
trước.
Indonesia
sau khi tình hình kinh tế sáng sủa lên một ít vào đầu năm 2000, kinh tế
Indonesia lại trượt dốc, với GDP năm 2001 mới chỉ tăng 3 - 3,5% trong khi con số
này là 4,8% vào năm 2000. Mỹ, Nhật Singapore là 3 thị trường tiêu thụ gần 50%
hàng xuất khẩu của Indonesia hiện đang rất bức bách với nỗi khổ của chính
mình.
Giá
dầu thô thế giới giảm cũng bất lợi cho Indonesia nếu tình hình không diễn biến
phức tạp, kinh tế Indonesia năm 2002 chỉ tăng khoảng
3%.
Thái
Lan: kinh tế Thái Lan mấy năm qua hồi phục dần, song còn rất chậm. Chính phủ
Thái Lan đã nhiều lần phải hạ mức dự đoán về tăng trưởng GDP, từ 4,5% xuống chỉ
còn từ 1-2% vì xuất khẩu giảm (xuất khẩu chiếm 65% GDP của Thái
Lan)
Để
ổn định hoạt động, giữa năm 2001, ngân hàng trung ương Thái Lan đã phải tăng lãi
suất thêm 1%. Điều này đã gây ra hàng loạt hậu quả, như lợi tức trái phiếu tăng,
chi phí đầu tư của các công ty và chính phủ tăng khi nợ phải trả của họ dự kiến
tăng 124% trong tài khoản kết thúc vào
10/2002
Malaixia:
kinh tế thế giới suy thoái và thị trường điện tử khủng hoảng đang gây khó khăn
cho hàng xuất khẩu của Malaixia. Sản lượng hàng công nghiệp của nước này giảm
12,3 trong tháng
9/2001.
Tuy
nhiên, có nhiều dấu hiệu khả quan cho kinh tế nước này, như giá dầu cọ tăng và
số du khách nước ngoài tới Malaixia đạt kỷ lục 10 triệu lượt người. Để tránh suy
giảm kinh tế, chính phủ vừa mới công bố tiếp chương trình kích thích kinh tế cả
giá trị giá hơn 7 tỷ ringit (1,9 tỷ USD), vào đầu tháng 12/2001. Thủ trưởng
Mahathin đã tỏ ý hy vọng tình hình kinh tế nước nhà sẽ sáng sủa hơn trong năm
2002.
Philipin:
chính phủ philípin cũng đã phải điều chính mức ước tính về tăng trưởng kinh tế
năm 2001 còn 3,3% so với 4% năm 2000. Giống như nhiều nước châu á khác, philipin
khác phụ thuộc vào xuất khẩu, mà có tới 60% xuất khẩu của nước này là các sản
phẩm bán dẫn, vi
mạch..
Việt
Nam: Thu nhập từ xuất khẩu giảm 20% năm 2001, việc ký hiệp định thương mại với
Mỹ là thành quả đáng ghi nhớ của cả hai bên trên thị trường quốc tế, mở ra một
giai đoạn mới với nhiều thách thức và cơ hội cho các nhà xuất khẩu Việt Nam.
Trên thị trường thế giới, các sản phẩm đem lại thu nhập cao từ xuất khảu cho
Việt Nam là dệt may, rau quả, hàng thủ công mỹ nghệ và sản phẩm gỗ, GDP Việt Nam
năm 2001 ước tăng từ 5% đến
6%.
Nhìn
chung, kinh tế các thành viên ASEAN đều suy giảm do ảnh hưởng của sự suy giảm
nền kinh tế toàn cầu. Hầu hết tình hình xuất khẩu của các nước trong hiệp hội
đều trì trệ do các nước nhập khẩu chính cũng đang lâm vào tình trạng khó khăn
tương tự. Để khôi phục được tốc độ tăng trưởng cao như đã có đòi hỏi các nước
này cần phải nổ lực rất lớn, cần xây dựng xác chính sách đúng đắn cho từng thời
kỳ thích hợp.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/hiep-hoi-cac-nuoc-asean.html
2.
Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đến
ASEAN
Đông
Nam á là láng giềng của Trung Quốc và có tầm quan trọng đặc biệt với Trung Quốc.
Chính vì vậy việc Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO - cũng có
nghĩa là chính phủ trung quốc cam kết mở rộng thị trường và tuân thủ các luật lệ
quốc tế - đã tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức, cho các nước
Đông Nam á, vấn đề là các chính phủ phải làm gì để vượt qua thách thức và tận
dụng cơ hội đặt ra "khi Trung Quốc gia nhập
WTO"
*
Trung Quốc gia nhập WTO - là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến xu thế đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc và Đông Nam á trong một vài năm tới. Sự gia
nhập WTO sẽ khiến Trung Quốc hấp dẫn đầu tư nước ngoài vào nước này, đằc biệt Mỹ
và Nhật Bản sẽ chuyển dần đầu tư củaTừ các nước Đông Nam á vào Trung Quốc. Theo
báo cáo của hội nghị liên hợp quốc về thương mại và phát triển, hiện Trung Quốc
đang thu hút khoảng 80% đầu tư nước ngoài đổ vào châu á. Ngay cả khi chưa được
công nhận là thành viên chính thức của WTOm Trung Quốc đã thu hút được lượng vốn
FDI nhiều hơn tất cả các nước Châu á gộp lại 45,5 tỷ USD/1998. 43 tỷ/1998 và 40
tỷ USD/2000. Tính đến tháng 7/2001. Trung Quốc đã giải ngân được 373 tỷ USD -
đứng thứ 2 thế giới sau
Mỹ.
Việc
Trung Quốc thu hút mạnh mẽ FDI sẽ gây tổn hại cho các nước Đông Nam á. Trung
Quóc có lợi thế về lao động, tài nguyên dồi dào và thị trường tiêu thụ rộng lớn
hơn các nước ASEAN. Các tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào Trung Quốc có điều
kiện thuận lợi để mở rộng mạng lưới chi nhánh nhằm làm tăng lợi nhuận, thị phần
và doanh số.
Hơn
nữa, các nước ASEAN gồm nhiều nền văn hoá và có trình độ phát triển kinh tế khác
nhau, lại chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực.
Sự suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường ASEAN tất yếu kéo theo
sự suy giảm của các dòng đầu tư. Trong khi đó các nền kinh tế ASEAN chưa có sự
phục hồi chắc chắn, FDI từ các nước phát triển sẽ còn tiếp tục giảm và đổi dòng
sang Trung Quốc trong các năm tiếp theo. (10% luồng FDI vào ASEAN sẽ bị mất
đi)
Nước
|
1987-1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
1996
|
1997
|
1998
|
1999
|
2000
|
|
Trung
Quốc
|
4652
|
27.515
|
33.787
|
35.849
|
40.180
|
44.236
|
45460
|
40.400
|
37.000
|
|
Inđônexia
|
999
|
2.004
|
2.109
|
4.346
|
6.194
|
4.673
|
-356
|
|
|
|
Malaixia
|
2387
|
5.006
|
4.342
|
4.178
|
5.078
|
5.106
|
3.727
|
|
|
|
Philippin
|
518
|
1.238
|
1.591
|
1.478
|
1.517
|
1.222
|
1.723
|
|
|
|
Xingapo
|
3674
|
4.686
|
8.550
|
7.206
|
7.884
|
9.710
|
1.218
|
|
|
|
Thái
Lan
|
1056
|
1.805
|
1.364
|
2.068
|
2.336
|
3.733
|
6.969
|
|
|
|
Việt
Nam
|
|
300
|
1.050
|
1.400
|
1.830
|
2.590
|
1.850
|
1.484
|
1.800
|
|
Toàn
ASEAN
|
9335
|
16.109
|
20.456
|
22.606
|
27.785
|
26.710
|
19.451
|
15.158
|
|
|
Các nước đang phát
triển
|
35326
|
78.813
|
101.146
|
106.224
|
135.343
|
172.533
|
165.936
|
192.000
|
200.000
|
|
Thế
giới
|
|
219.000
|
254.000
|
329.000
|
359.000
|
464.000
|
865.000
|
1000
|
Nguồn:
- UNCTAD. Báo cáo về FDI năm
1999
-
ASEAN secretariat, báo cáo về thời kỳ 1987- 1994 và năm
1999
-
Bộ KH và đầu tư Việt
Nam
-
Năm 2000 là ước
tính
Các
nước thành viên ASEAN cần phải tích cực cải thiện mới trưởng đầu tư, lựa chọn
lĩnh vực đầu tư, thay đổi nhanh chóng cơ chế điều hành FDI. Và theo đó tính hấp
dẫn nâng lên của các nước tiếp nhận sẽ làm phân tán luồng FDI và loại bỏ dần
tính tập trung thu hút FDI của Trung
Quốc.
*
Sự gia nhập WTO sẽ khiến Trung Quốc trở thành đối thủ cạnh tranh xuất khẩu chính
của các nước Đông Nam á trong nhiều cuộc chiến để giành thị phần và sẽ buộc các
nhà xuất khẩu phải cải thiện quá trình chế tác để có được những hàng hoá có giá
trị tăng cao hơn thay vì cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc trong lĩnh vực sản
xuất với chi phí lao động
thấp.
Thực
tế cho thấy hiện nay trung Quốc sản xuất các sản phẩm tương tự và dựa trên cùng
các thị trường xuất khẩu như của ASEAN. Vì vậy cạnh tranh xuất khẩu sẽ dữ dội
hơn khi Trung Quốc bắt đầu sản xuất sang các thị trường thế giới với cùng điều
kiện như của ASEAN. Hơn nữa, hàng xuất khẩu của Trung Quốc đã được hưởng quy chế
tối huệ quốc minh wên của Mỹ lại càng tạo điều kiện cho Trung Quốc thâm nhập thị
trường.
Tuy
nhiên Trung Quốc sẽ phải chuẩn hoá mọi quy chế và thủ tục liên quan đến xuất
nhập khẩu và vệ sinh thực phẩm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó khiến
Trung Quốc phải chịu chi phí sản xuất cao hơn và các quy chế về vệ sinh thực
phẩm và kiểm định thực vật sẽ nâng sản phẩm của Trung Quốc lên chuẩn mực Quốc tế
trong tương lai gần. Thêm vào đó, khả năng thâm nhập thị trường một cách dễ dàng
hơn sẽ khiến Trung Quốc chuyển từ cạnh tranh chiến lược sang cạnh tranh nắng
đọng và cuộc cạnh tranh này sẽ buộc các nhà xuất khẩu phải tập trung nhiều hơn
vào sản phẩm chế tạod dược thứ có giá trị gia tăng cao. Để phát huy toàn bộ tiền
năng của mình, các nước ASEAN, không nên cạnh tranh lẫn nhau trong thu hút FDI
(mặc dù điều này là không tránh khỏi)mà phải cùng nhau hợp tác và cùng nhau xây
dựng một chiến lược chung để dẫn được luồng FDI chảy ngược laị vào khu
vực.
*Nhanh
chóng ổn định các vấn đề về chính trị, xã hội, nhất là việc khắc phục tranh chấp
về tôn giáo, sắc tộc, biên giới để tạo lập môi trường chính trị, hoà bình và an
ninh kinh tế cho sự hợp tác phát triển khu
vực.
*
Phát huy vai trò nắng đọng của ASEAN trong các chương trình hợp tác song phương
và đa phương, đặc biệt là trong các tổ chức có sự tham gia của Trung Quốc để
cùng Trung Quốc tìm ra được những tiếng nói đồng thanh, tránh được những thảm
hoạ do chiến tranh lành mạnh giữa 2 bên về thu hút
FDi.
Tóm
lại; Trung Quốc gia nhập WTo se mang lại nhiều khó khăn cho ASEAN. Trong vấn đề
thu hút EDI. Tuy nhiên, tiềm năng và vị thế của ASEAN cũng rất có ý nghĩa trong
việc chống nguy cơ giảm sút FDI vào khu vực. Với sự nỗ lực của từng nước và của
toàn khu vực nhất là trong quá trình thực hiện AFTA,AIA việc Trung Quốc gia nhập
WTO có ảnh hưởng tới dòng FDI vào ASEAN song sẽ không thể nào loại trừ được
ASEAn ra khỏi danh mục các địa chỉ đầu tư hấp dẫn của thế
giới
3.
Mối quan hệ của ASEAN và một số nước lớn trên thế giới
:
ASEAN – Trung quốc
:
Quan
hệ ASEAN – Trung quốc bắt đầu từ năm 1991, khi Trung quốc được mời tham dự Hội
nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 24 tại Cualalămpơ. Tháng 7-1994 tại cuộc họp AMM
27 ở Băng Cốc; theo đó hai bên đã xác lập uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế,
thương mại và uỷ ban hỗn hợp về hợp tác khoa học và kỹ thuật. Hội nghị AMM 29 đã
nhất trí dành cho Trung Quốc quy chế đối ngoại đầy đủ của ASEAN. Quan hệ ASEAN
và Trung Quốc đã thành công trên những bước đi đầu tiên đặt nền móng cho mối
quan hệ hữu hảo sau này. Trung Quốc đã cam kết đóng góp 700.000 USD để lập Quỹ
hợp tác ASEAN – Trung Quốc để tài trợ cho dự án do ACJCC thông
qua.
Sự gia nhập WTO khiến Trung Quốc trở thành đối thủ cạnh tranh chính của các nước
Đông Nam á trong nhiều cuộc chiến để giành thị phần và buộc các nhà xuất khẩu
phải cải thiệnquá trình chế tác để có được những hàng hóa có giá trị gia tăng
cao hơn thay vì cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất với
chi phí lao động
thấp.
ASEAN – Nga
Quan hệ ASEAN – Nga bắt đâu từ tháng 7 –1991 khi Liên Xô cũ tham dự Hội nghi
ngoại trưởng ASEAN lần 24 tại cualalămpơ, đánh dấu sự mở đầu quan hệ hiệp thương
giữa Nga và ASEAN. Tháng 7-1996, hội nghị quyết định quy chế đối ngoại đầy đủ
cho Nga. Tại cuộc họp đầu tiên đã nhất trí xác định các lĩnh vực hợp tác là:
Thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế; khoa học và kỹ thuật, bảo vệ môi trường,
du lịch, phát triển nguồn nhân lực. Những thành tựu trong quan hệ đối ngoại với
Nga giúp các nước ASEAN đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế
giới.
ASEAN
– Mỹ
Quan
hệ đối ngoại ASEAN – Mỹ được bắt đầu từ tháng 9 – 1977, tập trung vào các vấn đề
mở rộng thị trường Mỹ cho hàng hoá xuất khẩu của các nước ASEAN, hệ thống ưu đãi
chung (GSP), các vấn đề buôn bán cụ thể giữa hai bên, thương mại quốc tế và
GATT, các vấn đề tài chính, tiền tệ, đầu
tư.
Tại
Diễn đàn đối thoại lần thứ 11, hai bên đã thoả thuận các dự án hợp tác 1992 –
1997 thông qua chương trình ASEAN – AID, tập trung vào ba lĩnh vực: mở rộng buôn
bán và đầu tư nội bộ ASEAN và giữa ASEAN với Mỹ; nâng cao chất lượng quản lý và
kỹ năng quản lý và chuyểngiao công nghệ của Mỹ để nâng cao tính kinh tế và hiệu
quả kinh tế trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên của các cơ sở công nghiệp
trong các nước ASEAN . Đầu tư của Mỹ vào khu vực này ngày càng tăng : năm 1993
là 8.89 tỷ USD , năm 1994 là 11.14 tỷ USD , năm 1995 tăng lên 16 tỷ USD . Năm
1995 Mỹ xuất sang ASEAN 40 tỷ USD nhập 60 tỷ USD xuất khẩu hàng hoá của ASEAN
sang thị trường mỹ chiếm khoảng 35%-40% giá trị hàng xuất khẩu của tổ chức này.
ASEAN và Mỹ là hai đối tác rất quan trọng của nhau cả về lĩnh vực kinh tế và an
ninh .
ASEAN
– UNDP
Từ
năm 1972, thông qua chương trình liên quốc gia do Châu á Thái Bình Dương(1972-
1976) trực tiếp triển khai, ASEAN đã nhận được khá nhiều trợ giúp của Liên Hợp
Quốc. UNDP là tổ chức quốc tế duy nhất, là một bên đối thoại của ASEAN. Mục đích
của chương trình tiểu khu vực ASEAN – UNDP là giúp các nước ASEAN tăng cường hợp
tác khu
vực.
Chương
trình ASP-5(1992-1996), với tổng số tiền tài trợ khoảng 13 triệu đôla, tập trung
thúc đẩy sự hợp tác bền vững trong khu vực, với các dự án
nhằm:
- Tăng
cường liên kết bên trong nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác của ASEAN để thực sự trở
thành một tổ chức khu
vực.
- Thúc
đẩy sự hợp tác nội bộ ASEAN, cụ thể là việc thành lập và thực hiện
AFTA.
- Hình
thành các chương trình hợp tác liên nghành đa lĩnh
vực.
- Thiết
lập liên kết giữa các chương trình quốc gia, tiểu khu vực, liên khu
vực.
- Tăng
cường năng lực điều hành dự án của Ban Thư ký
ASEAN.
ASEAN – EU
EU
là bên đối thoại sớm nhất của ASEAN, phạm vi hợp tác ASEAN- EU khá đa dạng và
phong phú, hai bên có các chương trình trao đổi hợp tác trong hầu hết các lĩnh
vực . Dựa trên tiềm năng và thế mạnh so sánh của mình, EU đặc biệt giúp đỡ các
chương trình của ASEAN về phát triển thể chế, môi trường, phát triển nguồn nhân
lực, khoa học công nghệ và kiểm soát ma tuý.Về quan hệ thương mại EU là đối tác
lớn thứ 3 của ASEAN sau Mỹ và Nhật Bản
.
ASEAN- Nhật Bản
Nhật Bản là một cường quốc kinh tế , với tham vọng trỏ thành cường quốc chính
trị trong tương lai tương xứng với vị trí kinh tế của mình. Để đạt được mục
đích của mình, Nhật Bản đặc biệt chú ý tăng cường ảnh hưởng của họ đối với khu
vực châu á - Thái Bình Dương, trực tiếp là đối với Đông Nam á, nơi có vị trí
chiến lược rất quan trọng và tiềm năng kinh tế
lớn.
Quan
hệ kinh tế Nhật Bản –
ASEAN
|
|
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
|
Thương
mại
-Xuât khẩu
-
Nhập
khẩu
|
37.679
31.759
|
40.706
31.551
|
49.474
34.012
|
60.629
36.623
|
Đầu
tư trực tiếp từ Nhật Bản vào một số nước Đông Nam
á
Đơn vị
TriệuUSD
|
|
1981
-
1985
|
1986-1990
|
1991-1995
|
1994
|
1995
|
1996
|
|
Singapore
Malaysia
Thái
lan
Philippin
Indonexia
Việt
Nam
|
1332
457
364
278
4000
n.a
|
3663
2106
3663
686
3117
0
|
4166
3702
4001
1956
1048
433
|
1054
742
719
668
1759
173
|
1185
576
1240
718
1605
204
|
549
164
627
248
1060
222
|
§«ng
Nam ¸ lµ mét trong nh÷ng thÞ trêng bu«n b¸n chñ chèt cña NhËt b¶n vµ lµ n¬i
cung cÊp nguyªn liÖu cho c¸c ngµnh c«ng nghiÖp cña níc
nµy.
KẾT
LUẬN
Tóm
lại, có thể thấy rằng quá trình hình thành ASEAN 10 trong hơn 30 năm qua là một
thắng lợi lớn của tư tưởng hoà bình, tự cường dân tộc kết hợp với tự cường khu
vực, của những tư tưởng hợp tác và phát triển. ASEAN có một vị thế quốc tế như
ngày nay bởi nó đi đúng xu thế của thời đại. Có thể nói nếu không có sự chấm dứt
của chiến tranh lạnh thì cũng không có một Đông Nam á như ngày
nay.
Nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi của ASEAN như ngày nay là việc tổ chức này luôn
luôn bám sát tôn chỉ mục đích và nguyên tắc của mình, trong đó nguyên tắc quan
trọng nhất là tôn trọng nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của các nước
thành viên, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước thành viên dưới
bất kỳ hình thức
nào.
Trong
hơn 30 năm qua ASEAN đã đạt được nhiều thành công trong hợp tác kinh tế, trong
xây dựng Đông Nam á thành khu vực hoà bình, tự do và trung lập, phi hạt nhân
trong việc mở rộng quan hệ ra ngoài khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy việc
nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường các nước ASEAN sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt
Nam có thêm cơ hội mở rộng thị trường hàng xuất nhập khẩu của mình và hội nhập
vào nền kinh tế thế
giới.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/hiep-hoi-cac-nuoc-asean.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét