ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề
tài : Cổ
phần hoá doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi nền kinh
tế
Mở đầu : đặt vấn đề về tính tất yếu của vấn đề cổ phần hoá
:
+ Đòi hỏi của lí
luận
+ Đòi hỏi của thực tiễn
+ Căn cứ vào chủ trương đường lối và chính sách của Đảng và Nhà
nước
Nội
dung:
I. Chủ lí luận của nghĩa Marx-Lenin về sở hữu và các thành phần kinh
tế
1 Bản chất của sở
hữu
2 Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước
2.1 Bản chất của thành phần kinh tế Nhà
nước
2.2 Đặc điểm vai trò của kinh tế Nhà nước
:
.Về sở hữu
.Về các ngành kinh tế mũi
nhọn
.Về hướng phát
triển
II.
Doanh nghiệp Nhà Nước thực trạng và vấn đề đặt
ra
1
Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện
nay
2
Thực trạng hoạt động của hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước
2.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà
nước
2.2 Nguyên nhân của tình trạng
trên
2.3 Những vướng mắc cần giải
quyết
III.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp cơ bản để đổi mới hoạt động của
các doanh nghiệp Nhà nước hiện
nay
1.
Các quan điểm về cổ phần hoá của Đảng
Cộng sản Việt
Nam
2
Tình trạng cổ phần hoá ở Việt Nam hiện
nay
2.1 Bản chất của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước
2.2 Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam
2.3 Những giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước
Kết
luận :
Rút
ra kết quả chủ yếu của đề án đã đề cập và kiến nghị của cá nhân về vấn đề cổ
phần hoá.
MỞ
ĐẦU
Kinh
tế Nhà nước mà thành phần chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước(DNNN) đang đóng
một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân hiện nay .Nhưng bên cạnh những
thành tựu và đóng góp to lớn của các DNNN trong suốt quá trình phát triển của
nền kinh tế nước ta thì hiện nay các DNNN đang phải đối đầu với nhiều khó khăn
thử thách như: tình trạng làm ăn thua lỗ, công nghệ lạc hậu ,sức cạnh tranh trên
thị trường kém ,yếu kém trong quản lý tài sản cũng như nhân lực ....Thì một yêu
cầu cấp thiết đặt ra là làm sao phải năng cao hiệu quả kinh tế của các DNNN mà
vẫn giữ vững vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế quốc dân
.
Một giải pháp đúng đắn đưa ra từ đầu những năm 90 của thế kỷ20,dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin cũng như quan điểm của Đảng và Chính phủ ta chính
là cổ phần hoá các DNNN .Trong nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 2
khoá VII(11-1991)nêu rõ :”Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện
thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải
làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ ,rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi
thích hợp “.Bắt đầu thực hiện cổ phần hóa DNNN từ năm 1992 sau hơn 10 năm thực
hiện thì quá trình cổ phần hoá DNNN đã thu được những thành tựu đáng kể nhưng
cũng không ít vướng mắc cần những biện pháp khắc phục kịp thời để tiếp tục đẩy
nhanh quá trình cổ phần hóa ở nước
.
NỘI
DUNG
! DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỰC TRẠNG VÀ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA
:
1.
Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện
nay
Doanh nghiệp như đã nói ở trên chỉ là một bộ phận của kinh tế Nhà nước nhưng lại
là bộ phận chính yếu ,là phương tiện ,công cụ lực lượng đi đầu mở đường cho sự
phát triển kinh tế
.
Các doanh nghiệp Nhà nước vừa là chủ thể tham gia kinh doanh ,là lực lượng trực
tiếp tạo cơ sở vật chất cho xã hội ,vừa là lực lượng nòng cốt để Nhà nước dẫn
dắt mở đường cho cho các thành phần kinh tế cùng phát triển .Như vậy đây là hệ
thống các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập và làm chủ sở hữu vừa là những đơn
vị kinh tế tự chủ độc lập vừa là lực lượng kinh tế vĩ mô của Nhà nước .Là chủ
thể kinh tế .các doanh nghiệp Nhà nước phải hoạt hiệu quả để đóng góp tích cực
cho ngân sách Nhà nước,đảm bảo gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư
cho các doanh nghiệp này .Là lực lượng kinh tế vĩ mô các doanh nghiệp Nhà nước
phải góp phần tạo ra môi trường ,tiền đề thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của
các loại hình doanh nghiệp khác ,lôi cuốn cácdoanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác vào quĩ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội .Vi phạm hai chức năng trên hệ
thống doanh nghiệp Nhà nước chẳng những không góp phần thúc đẩy kinh tế Nhà nước
tăng trưởng mà còn làm suy yếu lực lượng kinh tế làm giảm vai trò quản lý vĩ mô
của Nhà nước
.
Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước gắn với việc tham gia vào hoạt động kinh tế
của Nhà nước .Vai trò này thể hiện trên ba khía cạnh :kinh tế ,chính trị ,xã
hội .Nội dung ba vai trò này được thể hiện như sau
:
-
Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước giữ vững sự ổn định xã
hội điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa
-
Mở đường ,hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển ,thúc đẩy sự tăng trưởng
và phát triển nhanh của toàn bộ nền kinh tế
.
-
Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế
xã hội .Cung ứng các hàng hoá và dịch vụ thiết yếu ,nhất là trong lĩnh vực kết
cấu hạ tầng( giao thông , thuỷ lợi ,điện nước ,thông tin liên lạc,v.v..), xã hội
( giáo dục ,y tế ,v.v..) và an ninh ,quốc phòng
.
-
Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế ,thúc đẩy nhanh việc
ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước .
-
Là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước
,chống sự phụ thuộc vào nước ngoài về kinh tế trong điều kiện mở của hội nhập
với khu vực và thế giới
.
2.
Thực trạng hoạt động của hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước
2.1
Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước
:
2.1.1
Những thành tựu đạt
được:
Các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở nước ta đã có lịch sử hơn 50 năm phát triển
và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong các
giai đoạn lịch sử .Trong những năm gần đây thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
các DNNN đã không ngừng đổi mới ,sắp xếp tổ chức lại .Số doanh nghiệp đã giảm đi
nhiều ,từ hơn 12 000 doanh nghiệp nay chỉ còn hơn 5 000 doanh nghiệp nhưng vẫn
là một lực lượng kinh tế mạnh ở nước ta hiện nay :năm 1999 các DNNN làm ra 40,2%
GDP trên 50% giá trị xuất khẩu,đóng góp 39,25% tổng nộp ngân sách Nhà
nước.
Từ đầu thập niên 90 Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều biện pháp đổi mới cơ
chế chính sách để doanh nghiệp tự chủ trong cơ chế thị trường .Từ năm 1991 tới
nay Chính phủ đã thực hiện ba đợt sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Đợt thứ
nhất (1990-1993), đợt thứ hai (1994-1997), đợt thứ ba (1998-nay) trong đó thực
hiện việc sáp nhập, giải thể ,phá sản doanh nghiệp Nhà nước yếu kém thua lỗ kéo
dài để khu vực Nhà nước có cơ cấu và qui mô hợp lý .Kết quả 3 đợt sắp xếp đổi
mới nói trên là tích cực ,hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước được tăng
lên và không gây hậu quả xấu cho xã hội .Số doanh nghiệp giảm 55% về số lượng
chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ do địa phương quản lý. Cơ cấu doanh nghiệp hợp lý
hơn có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn ,hình thành và
phát triển thêm một số doanh nghiệp mới có công nghệ và trình độ cao hơn ,có sức
cạnh tranh tốt hơn .Số doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống đã giảm từ gần
50%( năm 1994) xuống còn 18,2% (năm 2000) ;số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ
tăng từ 10% lên 25%; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên
22 tỷ đồng. Qua sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước phát triển cơ bản
tương đối ổn định và góp phần quan trọng cho nguồn thu ngân sách Nhà nước
.
Thực hiện Quyết định số 90/TTg,91/TTg của Thủ tướng Chính phủ và nghị định
số39/CP ban hành Điều lệ mẫu và hoạt động của tổng công ty Nhà nước, theo luật
doanh nghiệp Nhà nước để năng cao hiệu quả và nhu cầu tập trung phát triển doanh
nghiệp vào một số ngành trọng điểm ,then chốt trên cơ sở sắp xếp lại 250 liên
hiệp xí nghiệp và tổng công .Sau nhiều lần sáp nhập và chuyển đổi đến nay có 17
tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90 đang hoạt động tập trung vào các ngành
then chốt của nền kinh tế .Các tổng công ty Nhà nước có 1 605 công ty thành viên
chiếm 28,4% tổng số doanh nghiệp Nhà nước, 65% vốn Nhà nứơc ,61%lao động .Kết
quả là :
-
Các tổng công ty đã chi phối được các ngành các lĩnh vực quản lý then chốt của
nền kinh tế. Năm 2000 các tổng công ty đã cung cấp nền kinh tế quốc dân 98% sản
lượng điện ,97% sản lượng than ,54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng thép ,48%
sản lượng giấy ,67% sản lượng thuốc lá ,các ngân hàng ngoại thưong nắm giữ
70%thị phần vốn vay ....Tổng kim ngạch xuất khẩu của 17 tổng công ty 91 năm
2000là 4,7 tỷ USD ,bằng 31,9% tổng giá trị xuất nhập khẩu của cả nước
.
-
Cùng với đó Nhà nước tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước . Thành tựu của
quá trình này sẽ được đề cập đến ở phần sau .Quá trình thực hiện giao bán và
khoán kinh doanh cho thuê những doanh nghiệp Nhà nước có qui mô nhỏ ,thua lỗ kéo
dài thông qua việc ban hành Nghị định số 103/1999/NĐ-CP,đến tháng 5-2001 toàn
quốc đã thực hiện giao ,bán ,khoán kinh doanh 52 doanh nghiệp Nhà nước có vốn
Nhà nước dưới 1 tỷ đồng .Theo báo cáo ,so với trước đây tính chung vốn kinh
doanh tăng 67,3%;doanh thu tăng 42,5%,lao động tăng12,8%,nộp ngân sách Nhà nước
tăng 44,55 ,thu nhập bình quân của người lao động tăng
38,7%.
Trong hơn 10 năm thực hiện đổi mới,sắp xếp ,phát triển DNNNđã có những chuyển
biến tích cực giúp DNNN thích ứng và hoạt động hiệu quả trong cơ chế mới .Qua
sắp xếp lại số doanh nghiệp giảm mạnh nhưng tổng giá trị tài sản của các vẫn
tăng lên và tốc độ phát triển sản xuất bình quân hàng năm trong 10 năm 1992-2000
của khu vực DNNNvẫn duy trì ở mức 11%.Năm 2000 cácDNNN đã đóng góp 39,5%GDP
,39,2%tổng thu ngân sách Nhà nước ,trên 50% kim ngach xuất nhập khẩu của cả nước
,chiếm 98%các dự án liên doanh với nước ngoài .Trong 10 năm (1991-2000) DNNNđã
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp gần 64 000 tỷ
đồng.
2.1.2 Những hạn
chế:
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà DNNN đã đạt được thì cũng còn tồn tại nhiều
tồn tại .Hiện nay mặc dù đã qua nhiều lần tổ chức sắp xếp lại ,thực hiện nhiều
đổi mới trong cơ chế quản lý ,kể cả những hỗ trợ ,khoanh nợ ,xoá nợ ,cấp vốn bổ
sung ,miễn giảm thuế ,cấp tín dụng ưu đãi của Nhà nước nhưng nhìn chung doanh
nghiệp Nhà nước còn rất nhiều khó khăn yếu kém :hiệu quả kinh doanh thấp và có
xu hướng giảm dần .Năm 1995 một đồng vốn do doanh nghiệp Nhà nước tạo ra được
3,46 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận ,nhưng tới năm 1998chỉ còn làm được
2,9 đồng Bên
cạnh những thành tựu to lớn mà DNNN đã đạt đợc thì cũng còn tồn tại nhiều tồn
tại .Hiện nay mặc dù đã qua nhiều lần tổ chức sắp xếp lại ,thực hiện nhiều đổi
mới trong cơ chế quản lý ,kể cả những hỗ trợ ,khoanh nợ ,xoá nợ ,cấp vốn bổ sung
,miễn giảm thuế ,cấp tín dụng ưu đãi của Nhà nớc nhng nhìn chung doanh nghiệp
Nhà nớc còn rất nhiều khó khăn yếu kém :hiệu quả kinh doanh thấp và có xu hớng
giảm dần .Năm 1995 một đồng vốn do doanh nghiệp Nhà nớc tạo ra đợc 3,46 đồng
doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận ,nhng tới năm 1998chỉ còn làm đợc 2,9 đồng
doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận .Theo đánh giá, số doanh nghiệp hoạt động kém
hiệu quả thua lỗ chiếm tới 20% tổng số doanh nghiệp .Nếu tính đủ khấu hao không
có sự hỗ trợ của Nhà nớc dới nhiều hình thức thì số doanh nghiệp làm ăn thua
lỗ còn lớn hơn .Số doanh nghiệp còn lại cũng ở trạng thái không ổn định không
vững chắc .Công nợ trong các DNNN hiện nay quá lớn .Hiện nay 54,1% giá trị tài
sản DNNN hình thành từ vốn vay ,vốn chiếm dụng .nghĩa là doanh nghiệp có 1 đồng
thì có 1,2 đông vốn vay và chiếm dụng (theo báo Người lao động ngày 16/2/2001
).Như vậy thì các doanh nghiệp phải trả lãi nhiều do đó hiệu quả kinh doanh bị
giảm liên tục . Những yếu kém còn tồn tại bao
gồm:
-
Đổi mới quản lý Nhà nứoc đối với DNNNchưa đáp ứng được yêu cầu làm rõ và bảo đảm
quyền quản lý Nhà nước ,quyền chủ sở hữu của Nhà nước đồng thời tạo điều kiện để
DNNNthực sự kinh doanh trong cơ chế thị trường định hưóng xã hội chủ
nghĩa.
-
Trong sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều yếu kém .Nhìn chung việc sắp
xếp lại DNNNchủ yếu mới là thu gọn đầu mối về mặt số lượng .Cơ cấu và chất lượng
còn nhiều tồn tại .Năm 2000 mới có 40% doanh nghiệp hoạt động thực sự có hiệu
quả còn lại 31% chưa có hiệu quả khi lãi ,khi lỗ,và 29% liên tục thua lỗ ; qui
mô vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới59,82% trong đó có 18,2%vốn từ một tỷ đồng trở
xuống .
-Những
tồn tại yếu kém của DNNN còn thể hiện ở những mặt cụ thể
như:
+ Hiệu quả sản xuất kinh doanh ,sức cạnh tranh của DNNN còn thấp ,tốc độ phát
triển chưa cao ,không ít doanh nghiệp còn ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước .Năm
1998 theo đánh giá chung số doanh nghiệp kinh doanh chưa có hiệu quả chiếm
khoảng 40%.Đến năm 2000 tỷ lệ nói trên vẫn là trên dưới 40% trong đó số doanh
nghiệp bị lỗ liên tục còn tăng lên từ 20% lên 29%.Năm 2000 DNNN đóng góp 39,2%
tổng thu ngân sách Nhà nước ,trong đó phần thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ có
13,4% . Năm 2000 một đồng vốn Nhà nước của DNNN làm ra 0.095 đồng lợi nhuận
trước thuế ,trong khi 1 đồng vốn của công ty cổ phần được chuyển đổi từ DNNNlàm
ra 0,19 đồng
.
+ DNNN qui mô vẫn còn nhỏ ,cơ cấu còn nhiều bất hợp lý ,dàn trải chồng chéo về
ngành nghề và tổ chức quản lý
.
+ Công nợ của DNNN ngày càng tăng,đầu tư đổi mới công nghệ chậm ,trình độ công
nghệ lạc hậu ,lao động thiếu việc làm và dôi dư còn lớn ,trình độ quản lý còn
yếu kém .
Tóm
lại, các DNNN ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã và đang đóng góp vai trò to
lớn gần như tuyệt đối trong lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhưng lại hoạt
động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Quá trình chuyển đất nước sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lí của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản DNNN. Đây là mâu thuẫn lớn, song
bắt buộc phải kiên quyết đổi mới, phải có giải pháp và bước đi phù hợp với trình
độ thực tế cơ sở
.
III
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp cơ bản để đổi mới hoạt động của
các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay
1
Các quan điểm về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của Đảng cộng sản Việt
Nam
Cổ
phần hoá là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ chỗ có một chủ sở hữu thành
công ty cổ phần có nhiều chủ sở hữu .Cổ phần hóa DNNNlà quá trình chuyển đổi sở
hữu Nhà nước thành công ty cổ phần trong đó Nhà nước vẫn giữ tư cách là một cổ
đông -vẫn là chủ sở hữu một bộ phận tài sản của doanh
nghiệp
Cổ
phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và nhà
nước. Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã nêu rõ:
Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phấn và
thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải thí điểm chỉ đạo chặt chẽ
rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích
hợp.
Nghị
quyết 10-NQ/ TW ngày 17/3/1995 của bộ chính trị đã nêu: ‘’Thực hiện từng bước
vững chắc về tổ chức về cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp không cần nhà nước
đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán tỷ lệ cổ
phiếu cho công nhân viên chức làm tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong
trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài quốc
doanh’’, Như vậy, nghị quyết của Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu khái
quát hình thức, mức độ và phạm vi thí điểm cổ phần doanh nghiệp nhà
nước.
Nghị
quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá IX nhấn mạnh ‘’Đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế
quản lý doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện các hình thức cổ phần thích hợp với tổ
chức và lĩnh vực sản xuất để thu hút thêm các nguồn vốn, taọ thêm động lực, ngăn
chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả’’
Thực
hiện chủ trương của Đảng; Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các văn bản để tổ chức
thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước.
Căn
cứ các chủ trương nêu trên, cán bộ ngành đã thông báo đến từng doanh nghiệp để
đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang công ty cổ phần. Dựa vào số lượng doanh
nghiệp nhà nước đã đăng ký, Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng (naylà Thủ Tướng Chính
Phủ) đã có
:
Quyết
định số 203/TC ngày 8/5/1992 chọn 7 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần chỉ đạo
thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. Bộ Tài chính quyết định danh sách 19
doanh nghiệp được các Bộ chỉ đạo chuyển thành công tycổ phần. Tuy có 19 doanh
nghiệp nhà nước đăng ký làm thí điểm cổ phần hoá, nhưng trong quá trình xây dựng
đề án nhiều giám đốc và tập thể lao động lại xin rút, hoặc không đủ điều kiện để
tiến hành cổ phần hoá (tính đến 1/9/1998). Danh sách các doanh nghiệp nhà nước
này đã hoàn thành việc chuyển thành công ty cổ
phần.
2
Tình trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện
nay
2.1 Thực chất của quá trình cổ phần
hoá
Trong tiến trình chuyển đổi kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trường, sự đa dạng háo các loại hình thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi
tất yếu và ngày càng phổ biến trong toàn xã hội. Những thành tựu của công cuộc
đổi mới cho phép đông đảo quần chúng công nhân ngày càng rõ hơn rằng: Bên cạnh
hình thức sở hữu Nhà nước, các hình thức sở hữu khác ( Tư nhân hay hỗn hợp) nếu
được tạo điều kiện thuận lợi cũng phát huy vai trò tích cặc trong đời sống kinh
tế. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những
nguyên tắc kinh tế,nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản kinh
doanh sản xuất, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như đầu óc sáng tạo của
người lao động và lãnh đạo doanh nghiệp
.
- Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã khắc phục được tình trạng vô trách nhiệm,
ỷ lại và lãng phí của các thành viên trong doanh nghiệp.Bởi vì những chủ thực sự
của doanh nghiệp đều có quyền lợi gắn liền với sự thành bại của doanh
nghiệp.
-
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã tháo gỡ khó khăn trong ngân sách Nhà nước
và góp phần xây dưng thị trường vốn lành mạnh phong
phú.
Những
năm gần đây, việc đảm bảo nền kinh tế quốc gia vững vàng là một yêu cầu cực kỳ
bức thiết, đặc biệt trong hoàn cảnh nền kinh tế không chỉ cần được phân bổ hợp
lý, có lợi cho việc tái cơ cấu nền kinh tế quốc dân mà tài sản Nhà nước cũng
cần được sử dụng nhằm mang lại hiệu quả đầu tư tối đa. Cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước là giải pháp giúp chính phủ thực hiện được những đòi hỏi thực tiễn
trên đây.Tài sản doanh nghiệp Nhà nước nhờ cổ phần hoá thu hồi sẽ được phân bố
cho những dự án quốc gia giàu tính khả thi hoặc đầu tư vào những ngành mang lại
nhiều lợi ích kinh tế xã hội quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền
vững.
Hơn
nữa các công ty cổ phần dưới quyền điều hành của chủ nhân mới, với động lực mới
trong quản lý doanh nghiệp,sức mạnh cạnh tranh không ngừng được củng cố để đảm
bảo thu hút vốn cổ phần của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là phần vốn
nhàn rỗi trong xã hội. Điều đó góp phần tích cực cho việc hình thành thị trường
chứng khoán, một điều kiện quan trong cho việc vận hành của nền kinh tế thị
trường.
-
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp.Cổ
phần hóa tác động trực tiếp đến người lao động, gắn trách nhiệm của họ với kết
quả sản xuất kinh doanh cảu doanh nghiệp, lợi ích của họ gắn liền với lợi ích
của doanh nghiệp. Ngoài ra cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước làm thay đổi mối
quan hệ giữa quyền quản lý và quyền sở hữu tài sản, quan hệ quản lý và quan hệ
phân phối ở các công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền quản lý được tách biệt rõ
ràng, sự can thiệp của các cấp chính quyền tới doanh nghiệp được giảm xuống tới
mức thấp nhất bởi nó khẳng định vai trò của hội đồng quản trị-lầ tổ chức thay
mặt tất cả các cổ đông, quản lý với tư cách là người chủ thực sự của doanh
nghiệp
Tóm
lại: Với những giải pháp cơ bản như trên, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thực
sự là một giải pháp cần thiết, quan trọng và trọng tâm của cuộc cải cách doanh
nghiệp Nhà nước
.
2.2
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
:
Từ năm 1954 miền Bắc nước ta bắt đầu khôi phục và phát triển nền kinh tế. Một số
ít xí nghiệp của tư sản dân tộc được cải tạo thành công ty cổ phần dưới dạng
công -tư hợp doanh với điều kiện Nhà nước lắm quyền quản lý và điều hành sản
xuất. Đến cuối những năm 1960 các xí nghiệp này được chuyển thành các xí nghiệp
quốc
doanh.
Còn ở Miền Nam, sau những năm 1975 do tiến hành cải tạo công thương nên đã ra
đời nhiều xí nghiệp cổ phần. Từ năm 1980 các xí nghiệp đó chuyển thành các xí
nghiệp quốc
doanh.
Từ
sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 ( năm1986) thực hiện chủ trương đổi mới
quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. ở nước ta đã xuất hiện một số xí nghiệp công ty cổ phần với quy mô nhỏ bé,
trình độ thấp nguồn vốn do các xí nghiệp đóng góp và đang trong giai đoạn sơ
khai như: công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản (Seapr odex), xí nghiệp vận tải biển
Hải Phòng, các công ty cổ phần trong lĩnh vực ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh,
hàng loạt các công ty liên doanh nước ngoài và công ty cổ phần tư nhân hoá.Từ
năm 1992 tới nay đã thực hiện những giai đoan sau
:
+
Giai đoàn thí điểm (1992 - 1995
):
Trong
giai đoạn này Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ban
hành Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về thí điểm chuyển một số DNNN thành
công ty cổ phần và Chỉ thị số 84 về việc xúc tiến thực hành thí điểm CPH DNNN và
các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN. Sau 4 năm thực
hiện, triển khai quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84 của Thủ tướng Chính phủ
(1992 - 1996) đã chuyển được 5 DNNN thành công ty cổ
phần
Trong
số 5 doanh nghiệp nói trên thì có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn TP Hồ Chí Minh và
1 doanh nghiệp thuộc địa bàn tỉnh Long
An.
+
Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến nay
:
Trong giai đoạn này ta có thể tác thành 2 giai đoạn
sau:
+ Giai
đoạn từ 5/1996 – 7/1998: Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và
tồn tại trong giai đoạn triển khai thí điểm CPH DNNN, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 28/CP ngày 7/5/1996 về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Nghị
định đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng thực hiện CPH : quy định cụ thể nguyên
tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi cho người lao động trong DNNN
và tổ chức bộ máy giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác CPH DNNN. Đồng thời
giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện. Là
giai đầu của thời kì mở rộng công tác CPH từ tháng 5/1996 đến 5/1998 tốc độ CPH
đã tăng nhanh hơn. Trong hai năm đã CPH được 25 doanh nghiệp, bằng 5 lần giai
đoạn thí điểm. Diện CPH cũng rộng hơn : 3 bộ và 9 tỉnh thành phố có doanh nghiệp
CPH. Quy mô doanh nghiệp cũng lớn hơn, có doanh nghiệp vốn trên 120 tỷ đồng, 5
doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ
đồng
+ Giai đoạn từ 7/1998 đến nay : Trên cơ
sở đánh giá các ưu thế và hạn chế của Nghị định số 28/CP Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 44/CP ngày 29/6/1998 về vấn đề CPH DNNN thay thế cho các nghị định
trước đây. Đây là một mốc quan trọng trong tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam. Trên
cơ sở đánh giá các ưu thế và hạn chế của Nghị định số 28/CP Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 44/CP ngày 29/6/1998 về vấn đề CPH DNNN thay thế cho các nghị
định trước đây. Đây là một mốc quan trọng trong tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam.
Nghị định này đã xác định rõ và giảm thiểu danh mục ngành nghề Nhà nước cần giữ
100% vốn, Nhà nước nắm giữ cổ phần đặc biệt, cổ phần chi phối, không hạn chế quy
mô doanh nghiệp. Do đó chỉ trong 6 tháng đến 31/12/1998 đã CPH được số doanh
nghiệp gấp ba lần hai giai đoạn trước đây. Tức là tính đến ngày 31\12\1998 cả
nước đã CPH được 120 DNNN. Năm 1999 là năm đạt kết quả cao nhất về công tác CPH:
cả nước đã chuyển được 250 DNNN hoặc bộ phận DNNN thành công ty cổ phần, đạt
55,5% chỉ tiêu nhà nước đề ra(450 DN). Như vậy tính đến ngày 31/12/1999 đã có
370 DNNN hoặc bộ phận DNNN thành công ty cổ phần, trong
đó có những DN có vốn lớn như Công ty mía đường Lam Sơn có giá trị tài sản 665
tỷ đồng, vốn Nhà nước tại DN là 92,5 tỷ đồng.... Tuy số
DNNN đã CPH đạt con số 370 doanh nghiệp (31/12/1999) nhưng so với tổng số DNNN
hiện có thì mới chiếm tỷ lệ rất thấp (6,4%) và so với số vốn Nhà nước hiện có
tại khu vực DNNN thì mới cổ phần hoá được 1% phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Điều này rõ ràng chưa góp phần hữu hiệu vào việc cơ cấu lại khu vực DNNN trong
toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.
Hiện
nay tính từ năm 1998 đến đầu năm 2002 thì cả nước đã cổ phần hoá trên 800 doanh
nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ và thị phần chưa cao
trong nền kinh tế quốc dân .Nhưng một số vướng mắc cần giải quyết đặt ra
là:
-Tốc
độ tiến hành cổ phần hoá còn quá chậm trước năm 1999 cổ phần hoá được 116 doanh
nghiệp , năm 1999 cổ phần hoá 249 doanh nghiệp ,năm 2000 là 212 doanh nghiệp
,năm 2002 cả nước mới có trên 800 doanh nghiệp chỉ đạt 38% kế hoạch được giao.
Nhưng theo đề án sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước từ năm 2002 đến 2005 các bộ ngành
địa phương và các tổng công ty 91 phải cổ phần hoákhoảng 2000 DNNN tức là trung
bình mỗi năm phải cổ phần hoá500 doanh nghiệp .Nhưng cả năm 2002 cả nước mới cổ
phần được 148 doanh nghiệp .Nghĩa là trong 3 năm còn lại trung bình mỗi năm phải
có 600 doanh nghiệp được cổ phần hoá
.
-Việc
tiến hành cổ phần hoá không đồng đều giữa các ngành các địa phương
.
-Nhiều
mục tiêu cổ phần hóa chưa đạt như mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội vào đầu
tư phát triển ;mục tiêu tạo điều kiện để người lao động các doanh nghiệp cổ phần
có cổ phần ,được mua cổ phiếu với giá ưu đãi
.
-Tài
sản Nhà nước bị thất thoát nhiều trong quá trình cổ phần hoá do không định giá
đúng được tài sản
.
-Tổ
chức Đảng trong công ty cổ phần chưa được đổi mới về chức năng nhiệm vụ ,phương
hướng hoạt động nên lúng túng trong sinh hoạt ,chưa phát huy tốt vai trò lãnh
đạo của mình
.
Nguyên
nhân của tình trạng này bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và khách quan vì vậy cần
có những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng
trên
2.3 Một số giải pháp thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
ở Việt
Nam:
2.3.1.
Tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước:
Để
tạo ra sự thống nhất cao về quan điểm trong toàn xã hội , tạo điều kiện để các
ngành, các cấp yên tâm thực hiện và thực hiện đúng, tránh những lệch lạc thiếu
xót không cần thiết. Nhà nước cần có một hệ thống pháp quy đầy đủ và đồng bộ
hướng dẫn việc thực hiện cổ phần
hoá.
Việc
ban hành các chính sách về cổ phần hoá cần phải được thực hiện sớm, kịp thời và
chính xác, tránh việc ban hành vội vàng, sửa đổi nhiều lần gây khó khăn cho việc
thực hiện của cấp
dưới.
2.3.2.
ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, nhất là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm
phát.
Việc
ổn định tiền tệ và duy trì sự ổn định đó một cách lâu dài sẽ tạo ra một tâm lý
an toàn cho các nhà đầu tư, khuyến khích nhiều thành viên bỏ vốn mua cổ
phiếu.
Hiện
nay lượng vốn nhàn rỗi trong dân tương đối lớn theo ước tính, nên các chính sách
tiền tệ ổn định và hợp lý sẽ là một biện pháp để huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong mọi thành phần xã hội…thì việc đầu tư mua khi cổ tức lớn hơn lãi suất ngân
hàng trong trường hợp tỷ lệ lạm phát thấp cổ phiếu sẽ được ưu tiên nhiều
hơn.
2.3.3
Cần sớm hoàn thiện thị trường chứng khoán trong mối quan hệ thị trường vốn, thị
trường tiền
tệ.
Thị
trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán cổ phiếu và trái phiếu.
Thị trường chứng khoán cung cấp nguồn vốn dài hạn cho sự phát triển sản xuất
kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Thị
trường vốn là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán và ccs giấy ghi nợ
trung và dài hạn. Thị trường vốn cung ứng các nguồn vốn nhàn rỗi vào thời gian
cho vay trên một năm để đầu tư dài hạn vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh
nghiệp.
Trên
thực tế ở nước ta hiện nay đã có thị trường chứng khoán .Nhưng hoạt động của nó
chưa có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế quốc dân vì vậy chưa phát huy
được tính ưu việt của
mình
Việc
hình thành thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện để mua bán cổ phiếu, thu hút
được ngoại tệ thông qua việc bán cổ phiếu cho người nước ngoài. Đồng thời cũng
tạo điều kiện cho Nhà nước quản lý vĩ mô thị trường vốn, đánh giá sự phát triển
nền kinh tế và đánh giá khả năng kinh doanh của các doanh
nghiệp.
2.3.4.
Tạo sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương cổ phần
hoá.
Thứ
nhất, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước không dẫn đến nguy cơ chênh
lệch hướng xã hội chủ nghĩa và làm suy yếu kinh tế Nhà nước. Bởi
lẽ:
Trong
cơ cấu kinh tế quốc dân, Nhà nước vẫn nắm giữ các doanh nghiệp thuộc các ngành
then chốt, trọng yếu tạo nền tảng cho nền kinh tế quốc dân và sức mạnh của Nhà
nước xã hội chủ
nghĩa.
Xét
trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, tài sản Nhà nước không bị suy giảm, mà còn có
khả năng gia tăng nhờ lợi tức cổ phần của Nhà nước và sự đóng góp ngày càng tăng
của các công ty cổ phần làm ăn hiệu
quả.
Quá
trình cổ phần hoá được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của Nhà
nước xã hội chủ
nghĩa.
Thứ
hai, cổ phần hoá không làm ảnh hưởng tới quyền lợi và vị trí của mỗi người trong
doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào hoạt động
của doanh
nghiệp.
2.3.5.
Tạo sự kích thích mạnh mẽ hơn bằng những ưu đãi kinh
tế.
Nghị
định 28/CP đã giành cả chương III để đề cập đến những ưu đãi với doanh nghiệp và
công nhân viên chức trong doanh nghiệp cổ phàan hoá. Tuy nhiên một số khoản
trong đó cũng là ưu đãi chung cho nhiều doanh nghiệp thông thường khác, hoặc
không thể coi là ưu đãi theo đúng nghĩa của nó.Cần có chính sách thoả đáng hơn
đối với người lao động trong doanh
nghiệp.
2.3.6. Đối với công tác chỉ đạo thực hiện cổ phần
hoá.
Kết
hợp sự chỉ đạo tập trung của Nhà nước và đăng ký tự nguyện của cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp. Căn cứ vào những quy định chung về lựa chọn doanh
nghiệp cổ phần hoá và diều kiện cụ thể của ngành và địa phương , các cơ quan Nhà
nước tiến hành phân loại các doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc. Đó là cơ sở để
xác định chương trình cổ phần hoá.Xác định rõ ràng và thống nhất xuyên suốt mọi
quy định về cổ phần
hoá.
http://tailieuvang.blogspot.com/2012/12/co-phan-hoa-va-co-phan-doanh-nghiep-nha-nuoc.html
2.3.7
Đa dạng hoá hình thức cổ phần
hoá:
Muốn
thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cần sử dụng nhiều hình thức
cổ phần hoá. Có thể áp dụng các hình thức sau : Công ty hoá doanh nghiệp Nhà
nước, số vốn trong doanh nghiệp Nhà nước được chia làm nhiều phần, Nhà nước giao
cho một số cơ quan nắm giữ cổ phiếu của Nhà nước. Các cơ quan này được hưởng
quyền lợi, được Nhà nước giao các quyền hạn và chịu trách nhiệm trước Nhà nước
theo quy định để quản lý phần vốn đó ; Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh
nghiệp, phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển
doanh nghiệp; Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho một số thể nhân,
pháp nhân để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn ; Doanh nghiệp bán cổ phần
cho công chúng để giảm bớt phần vốn của Nhà nước trong doanh nghiệp để tạo thành
sở hữu hỗn
hợp…
Tóm
lại: Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam diễn ra trong những
điều kiện thuận lợi và khó khăn nhất định của hoàn cảnh kinh tế xã
hội.
Quán
triệt tư tưởng chỉ đạo của chính phủ về cổ phần doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện
đồng bộ các giải pháp trên đây sẽ tháo gỡ các vướng mắc hiện tại của quá trình
cổ phần hoá và thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta
kịp với tiến độ mong muốn, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Kết
luận
Như đã trình bày ở trên thì quá trình cổ phần hoá DNNNmà Đảng va Nhà nước ta
đang thực hiện là một bước đi đúng đắn ,tuân theo yêu cầu khách quan cũng như
tình hình thực tế của nước ta .Quá trình cổ phần hóa đã diễn ra hơn 10 năm đem
lại không ít thành quả giúp vực lại nhiều doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ ,đem
lại sức sống mới cho nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây .Nhưng còn
nhiều doanh nghiệp núp dưới hình thức cổ phần hóa để tránh tình trạng phá sản do
đó không mang lại hiệu quả kinh tế ,đóng góp thiết thực cho nền kinh tế .Hoặc có
những doanh nghiệp chưa xác định đựơc hướng đi đúng nên chưa tạo ra sức bật cho
đơn vị mình .Thành tựu cũng có ,những vướng mắc tồn tại cũng còn nhiều ,do cả
nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại .Vì vậy mục tiêu trước mắt của
chúng ta vẫn là đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa nhằm tới năm 2005 chúng ta sẽ
hoàn thành quá trình này .Để đạt được mục tiêu đó thì Nhà nước phải không ngừng
hoàn thiện hệ thống chính sách của mình để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho
các doanh nghiệp Nhà nước tích cực,yên tâm tham gia vào Chính sách mà Đảng và
Nhà nước ta đang đề
ra
Danh mục tài
liệu tham
khảo
1. Giáo trình
Kinh tế chính trị -tập
II
2. Văn
kiện,nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 8,thứ
9
3. Các tạp chí
:
.Ngiên cứu
kinh tế
.Kinh tế
phát triển
.Tạp chí
cộng sản
.Tạp chí lí
luận
4.Một số thông
tin trên các báo trên địa chỉ http:\\www.vinaseek.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét